Một mối tình trong những lời thơ ấy

10:19 13/10/2010
LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

Phủ Tùng Thiện Vương - Ảnh: lieuquanhue

Nguyễn Hàm Ninh - như chúng ta đều biết - là người thôn Trung Thuần, bây giờ thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch. Ông tự là Tĩnh Trai, biệt hiệu là Thuận Chi, đỗ giải nguyên năm 1831 (1). Thời gian giữ một chức quan nhỏ tại Huế, qua môi giới của thơ văn, ông kết giao với Tùng Thiện Công Miên Thẩm. Dần dần, tình bạn giữa hai người trở nên mật thiết. Bài thơ đầu tiên Miên Thẩm viết về ông là vào mùa thu năm 1840, lúc cùng nhau ngồi trong vườn uống rượu, ngâm thơ (2).

Năm 1847, Tùng Thiện Công xây dựng vườn Ký Thưởng và Tiêu Viên bên bờ sông Lợi Nông, rồi hai năm sau, đưa mẹ sinh và ba người em gái cùng mẹ về chung ở. Ba người em gái này là Vĩnh Trinh, hiệu Nguyệt Đình, tức Quy Đức công chúa, Trinh Thận, hiệu Mai Am tức Lại Đức công chúa, và Tĩnh Hòa, hiệu Huệ Phố (còn có hiệu nữa là Trường Sơn), tức Thuận Lễ công chúa; cũng như anh ruột, ba chị em đều hay thơ. Là bạn thơ của Miên Thẩm: không lâu, Nguyễn Hàm Ninh cũng trở thành bạn thơ của ba bà chúa trẻ, chưa chồng.

Bến sông Lợi Nông trước Phủ Tùng Thiện Vương-nơi lưu dấu nhiều bước chân văn nhân tài tử xưa - Ảnh: lieuquanhue


Vốn là một con người vui tính, hay đùa nghịch song rất đa tình, nên mặc dầu lúc này ông đã cáo quan về nhà gần hai năm (3), thỉnh thoảng mới vào thăm Miên Thẩm, nhất là đã có vợ con rồi, nhưng ông vẫn thấy lòng xao xuyến trước con người tài hoa cùng với tuổi xuân hơ hớ của họ. Chúng ta thông cảm cho ông, một con người sống có phần phóng túng, mê rượu, mê cô đầu, ít khi tự ràng buộc vào khuôn phép. Hơn nữa, xã hội năm thê bảy thiếp lúc bấy giờ có cấm đoán gì điều ấy đâu. Từ mối yêu đương thầm lặng của mình, ông viết một bài thơ thăm dò ý tứ. Bài thơ nhan đề là “Vô đề”:

Thập nhị châu lan nhẫm tử yên
Đào hoa như cẩm thảo như chiên
Sơ liên thanh điệm vi kỳ địa
Tế Tuyết hàn mai vịnh nhứ thiên
Quyên phẩn bôi trung tương tiên tửu
Đồng tâm trướng để tiểu du tiên
Xuân phong nhất khứ vô tiêu tức
Lưu dữ anh kha thoại cựu duyên


Tạm dịch:

Một dãy lan chờ khói tía tươi (4)
Hoa như gấm trải cỏ chăn phơi
Rèm thưa chiếu sạch cờ vây nước
Tuyết mỏng mai đông tứ vịnh trời
Trướng rũ chung lòng thơ thoát tục
Chén vui bỏ giận rượu nâng mời
Gió xuân đi mãi không hơi dạng
Duyên cũ còn anh vẹt nhắc thôi.


Bài thơ nói là không đề nhưng rõ ràng là có đề, chỉ không viết rõ ra mà thôi. Nội dung nhẹ nhàng, ý tứ bóng bẩy vừa kín vừa hở, chữ và điển cố dùng rất đắt (5) ướm lòng các bà chúa như vậy thì tuyệt. Đến Cao Bá Quát, một người nổi tiếng khó tính về thơ, cũng phải khen “Cao bộ Trung Đường, phủ thị chư tử” (bài thơ hay như của thời Trung Đường, vượt hẳn các nhà khác). Miên Thẩm cũng chịu là hay. Ông nhận ra ngay là một bài thơ “ve gái” và “ve” chính các em gái mình. Nhưng là một người độ lượng, ông lấy thơ làm chủ yếu, không quan tâm gì đến điều đó. Lời nhận xét của ông thật là chính xác: “Khả dịch Ngọc Khê, Phi Khanh, Đoan Kỷ đẳng, bất năng cập” (có thể sánh ngang với Ngọc Khê, bọn Phi Khanh, Đoan Kỷ không thể theo kịp). Ngọc Khê, Phi Khanh và Đoan Kỷ là những người làm thơ ghẹo các bà công chúa thời trước.

Nguyễn Hàm Ninh làm xong, gởi cho Huệ Phố. Một người thơ gởi thơ cho một người thơ xem, hơn nữa, nội dung xa xôi, không định vào một người nào cả, có ai bắt gì được. Nếu Huệ Phố muốn hiểu theo tình ý thì hiểu, không thì thôi. Song hình như Huệ Phố không phải là đối tượng chính của nhà thơ, cái đích của ông là Mai Am. Trong bài thơ ít nhiều có ẩn ý đó (6), Huệ Phố xem rồi thế nào chẳng đưa cho bà chị đọc. Thế là đạt ý muốn. Đối với Vĩnh Trinh, người lớn tuổi hơn cả, một người luôn luôn đặt mình vào phép tắc phong kiến, chắc rằng ông không muốn đụng vào. Còn Mai Am, trong con mắt ông, là con người tài hoa, con người đa cảm hơn cả trong ba chị em, vì vậy cũng là con người đáng yêu nhất (7).

Ông biết rất rõ mối tình của mình dầu có được đáp lại bằng một thái độ gì, rốt cuộc cũng chỉ là một mối tình vô vọng. Biết thế nhưng vẫn không thể cưỡng lại lòng mình. Năm 1850, Mai Am tuân theo gia pháp, đi lấy chồng. Nỗi nhớ khiến ông viết bài “Ức mai” (Nhớ mai):

Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy
Tiểu các thanh hàn độc tọa trì
Địch lý quan sơn sầu cựu khúc
Thủy biên ly lạc nhận tiền kỳ
Hương nam tuyết bắc vô phương tấn
Nguyệt địa vân giai hữu mộng ti (tư)
Dục bả tân từ viễn tương tặng
Mỹ nhân uyển tại thủy chi my


Tạm dịch:

Đêm qua, đến, gió bắc rì rào
Ngồi một mình lâu, gác lạnh sao
Tiếng sáo cách xa buồn khúc cũ
Bờ sông rào dậu ấy ngày nào
Hương nam tuyết bắc tin không tới
Đất nguyệt thềm mây mộng nhớ nhau
Muốn gửi bài từ xa đến tặng
Thướt tha người ngọc bến hồ xao


Lời thơ không phong kín như bài trước. Có một cái gì chua xót bên trong. Nhớ một cành mai nhưng là nhớ một người. Người ấy, ngoài Mai Am, còn là ai khác nữa.

Bài thơ đến tay Mai Am. Bà đọc, lòng bồi hồi và xin tác giả cho đặt vào tập thơ của mình (Diệu Liên thi tập). Về sau, những lời gì của ông nói về bà, bà cũng chép vào cả. Điều này, trong bao nhiêu lý do, có lẽ có một lý do thầm kín. Mai Am lấy Thân Trọng Di, tuy là con một ông quan to, không đến nỗi văn dốt võ nát và cũng có lòng yêu nước (8) nhưng không có tài năng gì đáng kể, lại không ham thích thơ phú, do đó giữa hai người chưa thật tâm đầu ý hợp. Cuộc tình duyên vì vậy mà ngầm có ít nhiều bất như ý về phía Mai Am. Đọc thơ văn của bà, hơn một lần, chúng ta thấy thấp thoáng có bóng “một người đi qua”. Đây là những câu từ mang bóng dáng con người đó:

… Chào khách tiếng chim ngoài cửa
Thoạt nhớ một người những bữa
Xoắn xuýt giống tơ vò
Cho biết mối tình là ra rứa
Chan chứa chan chứa
Mòn mỏi mặt trăng hơn nữa


Những câu ca của bà cũng chứa đựng một cái gì in sâu vào lòng như vậy:

… Chuông bầu - giục sầu đòi khi
Chạnh vì - chạnh vì tình xưa
Màn loan bướm ong lửng lơ
Ngày dồn thoi én
Thu hết xuân về
Liễu giăng tơ
Nhạn thư vắng đưa
Biết ai có trông còn đợi
Lòng ta thêm ngại
Song giống đa tình
Dễ mấy ai đành…


Có thể nghĩ rằng bà đã hư cấu hoặc đứng vào tâm sự một người nào đó để viết. Nhưng ở đây, chúng ta gặp những hình ảnh chân thực quá, những tình cảm tha thiết quá, không phải là người trong cuộc khó viết nên nỗi.

Khu mộ của Nguyễn Hàm Ninh ở Quảng Lưu, Quảng Trạch, Quảng Bình - Ảnh: internet


Phần nhà thơ họ Nguyễn của chúng ta cũng vậy. Càng đi vào tuổi già, những con sóng ngầm càng vỗ mạnh trong lòng. Ông có một bài ca trù nói lên nỗi nhớ dằng dặc ấy:


Khúc tỳ bà bát ngát giữa giang thiên
Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã
Trừ tịch chi dạ
            Thị dạ phi da (9)
Giữa vầng soi thấp thoáng mặt hằng nga
Còn nhớ khúc kỳ đình năm nọ
Gẫm thân thế luống nực cười sự cũ
Thôi thì thôi nhắc lại mà chi?

Trong lòng bạch phát hồng nhan
Trách con tạo điên đảo
                        đảo điên chi lắm bấy
Đôi tay áo rủ bụi đời thay thảy
Biết rằng đâu là ân là oán
                        là nợ là duyên
Vong tình là tiểu thần tiên


Ông tự nhủ: “Đi tìm người tình thì tuổi xuân mình đã hết - đã trải việc đời thì không gì bằng ôm gối ngủ yên” (10) và “vong tình là tiểu thần tiên” nhưng đâu dễ thế. Chẳng qua ông tự dối mình. Người mà ông không thể nào dối được, trước hết là ông anh Miên Thẩm. Miên Thẩm là người đã nhìn thấy tận trái tim của ông. Một lần vào Huế, đến thăm người bạn thơ thân thiết, ông không ở lại chơi lâu như trước. Miên Thẩm ghi lại buổi gặp mặt ngắn ngủi ấy:

Thập niên kinh để biệt
Dẫn tích trí thư bưu
Hữu tửu quân kiêm đáo
Vô quan khí ích tù
Sóc phong hào ngạn thụ
Lạc nhật động hồ lâu
Tảo văn sinh xuân thủy
Tâm tri bất khẳng lưu


Tạm dịch:

Mười năm cách biệt kinh đô
Bao nhiêu chuyện cũ qua thư đã tường
Anh vào, vừa có rượu ngon
Không ai quan, chí khí càng hăng sao
Bờ cây gió bắc rì rào
Nắng chiều rung bóng lầu cao trên hồ
Dòng xuân rồi sẽ lên lo
Biết không chịu ở chơi lâu đâu mà


Miên Thẩm đã nhắc lại “ngọn gió bắc” thổi trên bờ cây, bóng “lầu trên hồ” nơi Mai Am ở, “dòng nước” có bóng người “thướt tha”, những cảnh vật từ bài thơ “nhớ mai” mà ông biết là đang vào vò nát tâm can bạn và cho lòng mình biết bạn không muốn ở lại chơi lâu.

Nguyễn Hàm Ninh vội từ giã đất Huế, không phải chỉ để quên mà còn trốn những gì cứ làm đau nhói tâm can. Nhưng trốn làm sao được? Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã, ông muốn những trái tim ông đâu có chịu khép lại.

Một mối tình man mác như hơi gió nhưng không thể nào tan. Biết đâu họ đã mang xuống tuyền đài. Điều chắc chắn hơn cả là nó cứ in dấu lên thơ văn của họ và còn lại mãi mãi như vang bóng Huế một thời (11).

L.A.
(6/4-84)


---------------
1. Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) có hai tập thơ văn: Tĩnh Trai thi văn tập Được sự ngẫu đề. Ông là một nhà thơ tiến bộ. Ông làm quan đến Án sát tỉnh Khánh Hòa rồi bị cách chức do một sơ suất trong đời sống. Sau đó, được phục chức nhưng sau khi Tự Đức lên ngôi, ông bất bình trước cái chết của Hồng Bảo nên cáo quan về làng.
2. Bài “Thu Viên đồng Thuận Chi đối chước” (vườn thu, cùng Thuận Chi uống rượu.
3. Theo bài thơ “Nguyễn Thuận Chi kiến phong đối ẩm” của Miên Thẩm thì ông cáo quan về năm 1847.
4. Mười hai cây châu lan trồng trước nhà màu tía, chỉ màu vua chúa thương dụng.
5. Bài thơ có một số điển tích rất gợi nhưng cũng rất khó diễn đạt khi dịch thành thơ. Song tiếc rằng một bài giới thiệu không thể cho phép phân tích đầy đủ.
6. Tế tuyết hàn mai: Tuyết mỏng mai non.
7. Về sau, Nguyễn Hàm Ninh có nói: “Ta học thơ với ngài Thương Sơn (tức Miên Thẩm) gần 20 năm, nay đọc thơ của một bà chúa em thì tự biết phận, chẳng những là làm học trò nơi nhà Tùng Vân (tức Miên Thẩm) mà còn phải làm học trò nơi đình Thinh Nguyệt (tức Mai Am) nữa”. Nguyễn Hàm Ninh nói không quá. Mai Am có một số bài thơ không những nổi tiếng lúc bấy giờ mà cho đến nay, vẫn còn có một giá trị nhất định. Chẳng hạn bài Mã Viện hay bài Độc điếu nghĩa dân tử trận văn.
8. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, ông chạy theo nhưng không đuổi kịp, bị ốm giữa rừng, vào trong một bộng cây mà chết.
9. Đêm cuối năm, có phải, không phải?
10. Nguyên văn chữ Hán: Tầm phương tự giác tạm xuân vãn/ Duyệt thế vô như bán chẩn nhàn.
11. Một số tài liệu trong bài này rút từ tập “Đời tài hoa” của Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề và “Tùng Thiện Vương” của Ưng Trình.
Trong “Đời tài hoa”, tác giả còn ghi một bài thơ của Huệ phố viết khi sắp đi lấy chồng và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh. Theo chúng tôi, ở đây không phải Huệ Phố nói đến mình mà muốn nói về Mai Am. Để các bạn đọc theo dõi và cũng để giới thiệu một bài thơ của Huệ Phố (Huệ Phố thi tập), chúng tôi trích đăng bài thơ đó:

Thực trúc dị mai cưỡng tự khoan
Giác vô ngôn xứ lộ nan can
Thương tâm đối thị đình tiền nguyệt
Bất tác đoàn loan cựu nhật khan

Tạm dịch:

Trồng trúc dời mai vui gượng gạo
Biết không nói được lệ khôn khô
Đau lòng trông mảnh trăng sân dọi
Chẳng thấy tròn như những buổi xưa.


Chúng ta gặp những ý như “dời mai”, chẳng chịu tròn lên (ý của Mai Am: mòn mỏi mặt trăng hơn nữa) có thể làm cơ sở cho nhận định này. Chắc là Huệ Phố đau buồn trước cảnh “ôm cầm thuyền ai” chưa được như ý của chị và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh để nói lên lòng nuối tiếc của mình. Chẳng lẽ nhà thơ có tình ý với cả hai chị em và cả hai chị em đều có tình ý với nhà thơ.
Huệ Phố lấy Đặng Huy Cát và là mẹ của Đặng Huy Phổ, một nghĩa sĩ của phong trào Cần Vương. Cuộc tình duyên này không có gì “gượng gạo” về phía bà. Cái ý “nhà cao cửa lớn, vẫn giữ trọn đạo người vợ” (Võ hoành nhàn Nội tắc chi chương) trong câu đối ở mộ bà đã khẳng định điều đó.


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).