May, rủi

17:32 08/03/2008
BÙI MINH QUỐCHoạ sĩ Từ Thành bạn tôi, vào thời khốn đốn nhất phải xoay sang làm mặt nạ để sống qua ngày. Ông thường làm các mặt nạ hề đủ loại, mặt ông địa, mặt chó, mặt khỉ, mặt gấu... và cả các thứ mặt tướng cướp. Khách hàng của ông toàn trẻ con. Vào mùa nắng ráo- mùa vui chơi của lũ trẻ, ông bán khá chạy. Biết tụi nhỏ chẳng có mấy tiền, ông bán rẻ, lấy công làm lãi, nên cũng chỉ tạm đủ sống. Nhưng vào mùa mưa gió bão bùng, hàng ế, thì ông đói. 

Minh họa: từ internet

Một đêm mưa gió, tôi mò đến nhà ông, cắp theo cút rượu gạo vừa mua được nhờ món tiền bán cái truyện ngắn cho một tờ báo còm trong tỉnh. Chúng tôi cùng ngồi nhấm nháp rượu suông, nghe gió hú mưa gào, ngẫm về cái thân phận làm văn làm nghệ. Ông Từ Thành khịt mũi luôn, rồi nước mắt tuôn lã chã. Tạng ông vẫn thế, cứ có tí hơi men vào là lại khịt mũi, lại khóc. Đang giữa lúc bao nhiêu nông nỗi của cái kiếp văn kiếp nghệ ngấm vào tới tận xương tuỷ, thì bỗng nghe có tiếng gõ cửa.
Ông Từ Thành giật mình cái thót, khẽ thì thào, đưa mắt nhìn ra cửa có vẻ sợ hãi.
- Bình tĩnh!- Tôi đặt tay lên vai ông trấn an- Để tôi ra thử. Biết đâu lại là người muốn nhờ vả gì mình...
Tiếng gõ cửa lại cất lên, có vẻ khẩn thiết.
“Chờ một chút”. - Tôi nói to và bước tới thận trọng hé cánh cửa ghép bằng những tấm gỗ dỡ ra từ thùng chứa hàng. Một người không nhìn rõ mặt đứng bên ngoài nghiêng mình khẩn khoản.
- Mưa to quá, xin ông làm ơn cho trú mưa một lát.
Tôi quay lại bảo ông Từ Thành: “Tôi đoán không sai, ông ấy xin vào trú mưa nhờ”- và mở hẳn cửa.
- Mời ông cứ tự nhiên!- Ông Từ Thành nói to.

Người khách trú mưa dáng cao lớn, để ria, mặc một chiếc áo Natô cũ đã sờn gấu, hai vai thấm ướt. Rất khó đoán tuổi ông ta. Có lẽ một phần vì mái tóc dày ướt bết che mất gần nửa khuôn mặt. Nhưng tôi có cảm giác đó không phải là lý do chính. Một lúc lâu sau, tôi mới xác định được rằng ông ta có vẻ mặt khá đặc biệt, biến đổi luôn luôn, thoắt già xọm đi, thoắt trẻ hẳn lại. Thoạt nhiên ông ta thu mình đứng bên mép cửa. Khi ông Từ Thành trỏ chiếc ghế mây ọp ẹp còn trống cạnh tôi ân cần mời, ông ta không khách sáo bước ngay đến ngồi xuống một cách đĩnh đạc.
Tôi lấy thêm chén, rót rượu mời. Người khách đưa cả hai tay nâng chén rượu và xin được chạm cốc.
- Xin chúc sức khoẻ ông- tôi nói.
- Xin chúc sức khoẻ và sức sáng tạo của hai bác - người khách nói, nháy nháy một bên mắt vừa hóm hỉnh vừa xoi mói.

Tôi rờn rợn trong mình. Chắc Từ Thành cũng vậy. Thế ra người lạ này biết rõ công việc của chúng tôi. Y đến đây là có chủ đích chứ chẳng phải trú mưa nhờ gì cả. Y thuộc hạng người nào, một phần tử bất hảo hay một công chúng hâm mộ các tài năng nghệ thuật? Tôi và Từ Thành đều tự biết mình còn lâu mới thuộc cỡ nghệ sĩ có người hâm mộ mò tới nhà thăm vào đêm hôm mưa gió thế này. Vậy nhiều phần chắc y chỉ có thể là một kẻ rất đáng nghi ngại. Khốn nỗi cái tính nhẹ dạ của chúng tôi đã dẫn y vào nhà và trở thành khách nhậu mất rồi.
-Rất hân hạnh cho cháu... - Y xoa tay, giọng nhỏ nhẹ, gương mặt bỗng trở nên trẻ trung lạ- đêm nay được hai bác cho uống rượu. Cháu xin được mời lại hai bác...
Y mở khoá chiếc áo Natô cái rẹt, móc từ lần túi áo trong ra một chai rượu đặt lên bàn. Tôi chưa kịp nhìn rõ nhãn rượu, thì y đã tiếp:
-Đây là chai rượu còn sót lại sau trận đại hồng thuỷ nhờ chiếc thuyền của ông Nôê.

Tôi cũng vừa nhận ra cái nhãn Ararát* cùng với lời giới thiệu đượm vẻ triết lý hóm hỉnh của người khách lạ. Cái kiểu cách tỏ ra là người hiểu biết của y khiến tôi càng thêm bất an trong bụng. Ông Từ Thành cựa quậy trên ghế, nhìn tôi với ánh mắt như muốn hỏi: không biết cái ông khách lạ này định làm gì mà đãi rượu sang thế?
Người khách đã mở nút chai, rót rượu ra. Tay y như có ảo thuật. Y dùng móng tay khía cái vỏ nút bằng kim loại bên ngoài và chỉ vuốt nhẹ là chiếc nút bấc bên trong bật lên nghe đánh pắc. Mùi rượu thơm phức, mùi của quên lãng thoáng ngửi đã lâng lâng
Sau dăm tuần rượu cùng những câu chuyện về nghệ thuật, về nhân tình thế thái, người khách bỗng nhìn thẳng vào ông Từ Thành, cất lời bằng một giọng giá băng:
- Bác Từ Thành...
- Ơ, thế ra ông biết cả tên tôi... - Ông Từ Thành đáp, húng hắng ho.
Người khách lạ hỏi mà nghe như ra lệnh:
- Ông có thể giúp tôi một chiếc mặt nạ được không?
- Ồ, được chứ, xin sẵn lòng biếu ông.
Ông Từ Thành thò tay vào chiếc hòm dưới gầm bàn lấy đưa cho y một chiếc mặt nạ hề.
Người khách phẩy tay, cười khẩy:
- Ô hô, vứt, cái này vứt, cụ “Khốt”** ơi...

Y nhón hai nhón tay kẹp chiếc mặt nạ liệng văng vào góc nhà. A, cứ như thể hắn là chủ ở đây! Chúng tôi cùng cảm thấy giận sôi lên trước cái trật tự bị đảo lộn đánh nhoáng một cách quái đản ngay trước mũi mình. Nhưng cũng ngay sau đó, chúng tôi cùng đưa mắt bảo nhau nén giận, nín thít.
Vốn nhạy cảm với những thế lực phủ phàng của cuộc đời, ông Từ Thành đâm cuống quýt hẳn. Ông móc đại ra một lô mặt nạ, nào mặt khỉ, mặt chó, mặt kẻ cướp, bày cả lên bàn, miệng lắp bắp: “Xin tuỳ ông chọn”.
Gã kia nhăn mũi nhìn ông vẻ thương hại, giọng nhẽo nhợt:
- Sao toàn những thứ dớ dẩn thế, hả ông nghệ sĩ “Khốt”. Tôi cần một cái mặt người thật tử tế, thật đạo mạo kia!
- Ông thông cảm - ông Từ Thành cung kính thưa - bấy lâu tôi chỉ làm những thứ này để bán cho trẻ con chơi. Còn những thứ mặt đạo mạo, tụi nhỏ không thích, nên tôi không làm...
Người khách lạ đứng hẳn dậy, đút hai tay vào túi quần đi đi lại lại trong căn phòng chật chội, vươn ngực nhìn ông Từ Thành từ trên xuống mà hỏi, vẫn bằng cái giọng thật lịch lãm mà như ra lệnh:
- Ông có thể làm cho tôi  một cái mặt người thật tử tế được không?
Ông Từ Thành đáp:
- Dạ thưa, làm được, nhưng không thể làm ngay, vì loại này mất công lắm ạ!
- Bao lâu thì xong?
- Thưa cũng phải ba ngày.
- Vậy ba ngày nữa, ông đem tới địa chỉ này cho tôi nhé. Có người đợi sẵn ở đó để nhận. Tôi hy vọng ông là người biết điều. Biết điều với tôi, ông không sợ thiệt đâu.

Gã nói một cái địa chỉ, rồi nhìn ông Từ Thành bằng cặp mắt vừa đe doạ vừa đầy cám dỗ và bước ra cửa. Trước khi khuất hẳn sau cánh cửa, gã còn khậc khậc cười, ném lại một lời phán: “Nghệ sĩ như các ông, có nhiều đức tính quý đấy, nhưng cốt nhất phải có cái đức biết điều!” Gã nhấn mạnh hai tiếng cuối cùng, đi đã xa rồi mà tiếng gã vẫn còn âm âm vọng lại mãi.
Một buổi tối ba ngày sau, ông Từ Thành đến nhà tôi, mặt mày tái nhợt, thần thái ngu ngơ. “Tôi... Tôi đã đưa cái ấy cho nó rồi...” Ông thều thào báo tin, rồi ngồi dựa vào tường, từ từ xỉu đi. Tôi xoa rượu vào mặt ông, đổ rượu vào miệng ông, lòng nhức nhối thương bạn, thương mình, rờn rợn cảm thấy một tai ương mơ hồ treo lơ lửng trên đầu.
Sau cái vụ hãi hùng đó, tôi phải đi làm ăn xa, bẵng gần hai tháng mới về. Vừa bước vào nhà, thằng con út đã giục:
- Bố ơi, bác Từ Thành dặn hễ bố về thì đến bác ngay. Mà không phải nhà cũ đâu. Bác đã chuyển đến chỗ ở mới rồi.
Nó đưa cho tôi mảnh giấy ghi địa chỉ mới của ông Từ Thành.
Tôi bồn chồn quá. Địa chỉ mới? May hay rủi cho ông đây? Đã quá lận đận trong cuộc đời, nên tôi chỉ quen nghĩ đến sự rủi mà thôi. Không khéo ông lại bị cái thằng lưu manh có vẻ có học kia quấy phá đến phải chuyển nhà.

Tìm đến được chỗ ở mới của ông Từ Thành, tôi sửng sốt đứng sững lại như trời trồng. Một ngôi nhà riêng hẳn hoi, chứ không phải cái căn hộ chật chội nằm trong dãy nhà tập thể lợp giấy dầu. Có cổng, có một mảnh vườn nhỏ trồng hoa nữa. Có cả nút chuông điện trên cột cổng nữa kia. Không sang trọng gì, nhà một tầng lợp ngói cũ thôi, nhưng cũng là một ước mơ của đời nghệ sĩ khốn quẫn triền miên. Đưa tay bấm chuông, trống ngực tôi vẫn thình thịch đập vì nghi ngại không biết đây có đúng nhà ông Từ Thành bạn tôi hay không. Mãi khi thấy thằng con trai cả của ông ra mở cổng, tôi mới hoàn toàn tin chắc.
Ông Từ Thành ôm chầm lấy tôi, ngây ngất chia sẻ với tôi sự ngây ngất. “Sao lại ly kỳ thế này hả? Hả?” Tôi cứ “hả, hả” mãi trong kinh ngạc. “Đừng có hả hả nữa ngồi xuống đây, uống, uống!” Ông vừa “uống, uống” vừa kéo tôi ngồi phịch xuống ghế xa lông nhún mềm thay cho chiếc ghế mây rách nát trước kia. Ông lấy từ chiếc tủ chè mới một chai rượu tây hiệu Nã Phá Luân, bảo rằng dành riêng chờ tôi về và xé gói mực khô xuất khẩu đơm lên cái đĩa sứ Trung Quốc, trong khi vợ ông tiếp tục xào món gì đó trong bếp mùi bay ra thơm nức mũi.

- “Nào uống!” Ông Từ Thành nâng ly rượu quý.
- Khoan đã. Cậu phải giải thích cho tớ vì sao lại có sự đổi đời một cách huyền thoại như thế này đã.
- À, có gì đâu, nhờ cái mặt nạ đấy.
- Mặt nạ nào?
- Thì cái mặt nạ thằng cướp đêm nọ bắt mình làm cho nó ấy mà.
- Ừ, chuyện ấy thì biết rồi. Nhưng tớ vẫn chưa hiểu.
- Cậu mới đúng là loại “khốt” chứ không phải tớ. Với chiếc mặt nạ ấy, trong thời gian ngắn hắn vớ được “quả” bẫm. Và hắn đi xe con đời mới đến tận nhà biếu tớ một khoản nho nhỏ.
Chúng tôi cùng cạn chén. Tôi thấy hiện lên trong đầu cái gã lưu manh đêm nào, một hạng kẻ cướp siêu đẳng luôn luôn cố ăn nói cho lịch lãm và có học, và vô cùng tài tình trong việc biến một vụ trấn lột thành một cuộc hiến dâng tự nguyện.

Chuyện này xảy ra đã lâu rồi, tôi còn nhớ
là đúng vào cái năm có sự lạ: không hiểu sao chó trong thành phố bỗng dưng có giọng sủa cứ sang sảng, nghe rất vui tai. Nhiều năm đã trôi qua, tôi không hề gặp lại thằng cha kia một lần nào nữa, nhưng tôi luôn có cảm giác hắn vẫn thường lảng vảng quanh quất đâu đây, cái cảm giác này dần dần đã biến thành một căn bệnh nan y- hễ cứ gặp người nào có bộ mặt đạo mạo quá là tôi lại đâm ngờ. Tôi và ông Từ Thành thỉnh thoảng vẫn ngồi uống với nhau, nhưng không còn để mừng cái vận may lớn đã đến với ông mà để vợi đi nỗi đau vì một tai hoạ lớn đã giáng xuống đời ông. Từ khi về chỗ ở mới, tự nhiên ông mất hết hứng thú không vẽ được nữa.
B.M.Q

(nguồn: TCSH số 213 - 11 - 2006)

 

 



------------------
* Ararát tên một đỉnh núi nằm giữa Ácmênia và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Kinh thánh, chiếc thuyền của ông Nôê trong trận đại hồng thủy đã tấp vào đỉnh núi này mà thoát nạn. Ở nước Ácmênia có loại rượu ngon nổi tiếng mang tên Ararát.
** “Khốt” bắt nguồn từ tiếng Khốt-ta-bít, tên một nhân vật huyền thoại mới trong một bộ phim Liên Xô, điển hình cho loại người cổ hủ.


 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.

  • XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.