ĐỖ KIM CUÔNG (*)
Ảnh: internet
Lính giáp ranh
Tưởng nhớ cán bộ và chiến sĩ KX thuộc Công trường V, Trị Thiên Huế hi sinh tại mặt trận Bắc Huế trong kháng chiến chống Mỹ...
Khúc 1
Lính tráng mô không mũ cũng không sao
Tay áo sắn cao, mặc quần xà lỏn
Quân lệnh như sơn:
“đi không dấu nấu không khói nói không tiếng”
Ẩn hiện như ma đích thị lính đồng bằng
Chỉ chiếc gùi với một võng, một tăng
Đêm dừng ở đâu là thành hậu cứ
Có gạo, có ăng gô... Lửa reo là thành bữa
Mệt nhọc gian lao quên hết sự đời
Suốt tháng năm cơm vắt,ngủ vùi
Ngày bám địch, đêm về làng mua gạo
Mỹ, Nguỵ ư?” Mũ lồi xanh, Trâu điên, Cọp Đen, thám báo...”
Gặp nhau ùng oàng sống chết cũng chơi
Trung đoàn ta bao đợt quân rồi
Hết lính Thừa Thiên rồi quân Thanh Nghệ
Lính Hải Phòng, Thái Bình đánh nhau không tệ
Hà Tĩnh, Thủ Đô mấy đợt quân vô
Phú Thọ, Nam Hà lính trẻ măng tơ
Yêu Huế mộng mơ ...qua thơ Tố Hữu...
Đêm ngủ rừng nghe pháo bầy ... Chợt hiểu
Chẳng thể đùa chơi với bom đạn chiến tranh
Khúc 9
Tôi lang thang phiêu dạt nhiều phương
Lính có một thời... Giờ làm dân tứ tán
Đi đâu, về đâu... Cũng găp bạn mang áo lính
Kẻ cầy thuê, người ba gác, xe thồ...
Áo sờn vai cắp sách làm trò
Đêm ngủ mê toàn ùng oàng trận mạc
Nhớ đỉnh dốc cao, nhớ bữa cơm trên chốt
Tiếng phản lực bay qua xé nát cánh rừng
Bạn bây giờ tóc bạc, lưng cong
Lương hưu còm xẻ chia tìm về nơi bạn mất
Bạn hoá sao trời, hoà vào trong đất
Cho cờ đỏ bay, cho biển lặng trời trong
Cho đào mai khoe sắc giữa ngày xuân.
----------------------
(*) Nguyên Đại đội trưởng C1, KX, Đại đội chủ công trong chiến dịch Xuân 3/1975, chiến đấu tại chiến trường Trị Thiên Huế từ 1968-1975).
(SHSDB31/12-2018)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi