TỪ NGUYÊN TĨNH
Truyện ngắn dự thi 1993
"Hồ Tịnh Tâm" của Bùi Á - Ảnh: tư liệu SH
Người để lại cho tôi nhiều ấn tượng mà mỗi khi nhớ đến là cứ muốn cầm bút, viết một cái gì đấy là Lão Cao, làm nghề chăn vịt. Suốt từ thời ấu thơ đến khi rời làng ra đi, lão luôn gần gũi tụi tôi. Lão là một người lạ hoắc thu hút bọn trẻ chăn trâu chúng tôi bằng đủ thứ chuyện. Người đời bảo lão ác, nhưng tụi tôi lại yêu quý lão. Có lão chúng tôi rất sợ, tưởng chừng mọi chuyện quỷ quái nào lão cũng biết tuốt. Lão tọc mạch từ câu chuyện ăn cắp vặt của cán bộ, đến chuyện bóp vú của họ. Nhưng lão lại hiền từ tới mức mỗi đứa trẻ "môn đệ" của lão được một quả trứng. Thử tưởng tượng xem, cái thời đói khát lúc đó được chén một quả trứng vịt là sướng run lên.
Người ta sợ lão một lý nữa, lão chỉ còn một con mắt, nhưng lại tinh thông hơn tất cả mọi con mắt của người đời gộp lại. Con mắt hỏng chẳng thèm nhìn ai hết nhưng cứ như bắn vào người ta, có sức ma lực làm cho người khác phải chờn. Lão Chột đấy, nhưng biết khối chuyện và kể chuyện lại hay đáo để.
Lúc ngật ngưỡng cút rượu, lão chỉ vào một vì sao nào đó, nhấp nháy trên trời là có thể thành một câu chuyện như lời lão vẫn hay tự phụ khi gọi chúng tôi:
- Bọn con nít! Lại đây tao nói cho nghe chuyện hay lắm cơ... vãi đái ra cho mà coi.
Lão nói thiệt đấy, lão chỉ cho một hố cá. Thế là cả lũ tụt ngay áo xống xuống dùng nón mê mà tát ì òm suốt ngày. Lúc mặt trời lặn cũng chia nhau mỗi đứa một xâu dài, hí hửng lùa trâu ra về. Lão bấm vào tay tôi bảo ở lại.
Lão lùa đàn vịt đến cho ăn bữa chiều. Con mắt độc nhỡn lướt trên những chú vịt có bộ lông xốp có vẻ hài lòng. Lão giơ sào lùa chúng vào một cồn nổi có chiếc lều nhỏ dùng làm đại bản doanh như vị tướng hét toáng lên:
- Cạc! cạc! cạc!... lão tung tay không nhưng tụi vịt ăn no chán tôm tép và quáng mắt nên cứ rúc xuống cỏ, cuộn tròn lấy một đám, réo lên nghe thật vui tai: - Quác... oác... Quạc!
Tôi như bị ma ám, theo lão ra cái vũng vừa mới tát.
- Trổ nước bắt cá về kho tương cháu ạ!
Nói chưa xong lão đã ném tung chiếc quần nâu vào bờ. Nồng nỗng lội ùm xuống hộc đấu, những hộc đấu này vốn do lấy đất đắp đê mà thành. Lão dúi vào tay tôi quả trứng vịt nướng được bọc bằng đất sét: - Ăn đi không đói, lão cười nham nhở.
Tiếng nước réo ào ào đến vui tai. Đã thấy lũ cá phơi ra chiếc lưng béo sậm. Tôi và lão hớt vào đầy một giỏ cứng. Còn lại những chú tôm nhảy tanh tách lão bảo để sáng mai điểm tâm cho tụi vịt.
Lão xâu làm hai xâu, cho tôi một xâu nhiều, còn xâu ít phần mình. Lão vỗ vào bờ vai đen cháy của tôi "Cháu đem xâu cá về cho thím nhé".
Tôi mệt lử theo lão lên bờ sông Đào. Thật sợ hãi khi trời đã nhập nhoạng mà phải bơi qua con sông rộng hơn trăm mét. Nhưng biết làm sao được, tụi bạn đi theo đường thẳng đã qua cầu. Tôi phải bơi qua sông mới đón đầu được chúng. Biết tôi sợ bị ma mãnh, thuồng luồng kéo chân ám ảnh bởi chuyện lão kể, lão cười khà khà:
- Chú đứng trên bờ này hô liên tục, cháu cứ thế mà bơi, quan trọng là đừng vì sợ mà ném mất xâu cá nghe chưa!...
- Tiến!... Tiến!... Tiến!... Tôi mệt nhoài vì thoát chết, nhưng lão cũng khát cổ vì đứng trên bờ giơ cao lá cờ chăn vịt hô.
Tụi trẻ chúng tôi sợ cán bộ tét roi vào đít vì trâu bò ăn lúa ít hơn sợ lão. Vì bao giờ cũng nghĩ ra một điều cho chúng tôi nghịch ngợm, giúp chúng tôi bí bách trong đánh nhau cùng trẻ chăn bò làng khác. Nhưng có lẽ sự cuốn hút tụi tôi là hàng ngàn con vịt, cứ sáng ra là hàng thúng trứng trắng lốp. Là chiếc lều nằm trên cồn đầy mả, mà chỉ mình lão như một anh hùng.
Thật ra chuyện riêng về đời lão, mãi trước đêm rời làng vào bộ đội mới được nghe, nhưng con người lão đã thu hút tụi trẻ chúng tôi từ thời chăn bò.
- Này bay... Tao kể cho nghe chuyện hay lắm... vãi đái ra cho mà xem! - lão cười quệt ống tay áo bông lên mặt.
Thời ấy, dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai lưng ra làm cho bọn chánh, lý hào mục hưởng. Ruộng đất vốn thế nhưng một sào được ba bốn chục cân thóc. Quanh năm đói kém. Thèm ăn cả đến củ khoai củ sắn. Một năm may ra được nhìn thấy miếng thịt một hai lần. Tôm cá đầy đồng nhưng không được quyền đánh bắt. Con người, không bằng con chó của nhà giàu, nằm ngủ quanh năm không màn, chăn. Rét mướt thì có ổ rơm. Không có tấm khố lành lặn để đeo, cháy rận phải dùng răng mà nhai.
Lão muốn ngóc đầu dậy, nhưng bọn chánh hào, lý mục đâu có chịu. Khốn nạn cho thân thằng Cao không có miếng đất cắm dùi, đi ở lại dòm dỏ con nhà mụ Liên. Có ai thừa... của để chúng nên vợ nên chồng. Chánh Thành sai bọn trương tuần: "Chúng mày phải trị cho thằng Cao thành thân tàn ma dại, mà có đánh chết cũng được. Ai cần lũ khố rách áo ôm ấy".
Chúng phục sẵn Cao ở cây. Xun đầu chừa Con Tran, chờ lúc Cao đến gặp Liên, hô hoán ầm lên:
- Ối làng nước ôi! Kẻ trộm ăn trộm khoai của làng ta!
Gậy tre nhằm vào Cao mà phang cho đến gục đổ, mềm nhũn như cây chuối bị bão. Thằng Thành bắt bốn thằng trương tuần giữ tay và chân để ngủ với con Liên trước xác thằng Cao.
Sáng ra, cha con Chánh Thành làm lễ cưới con gái mụ Liên. Đám cưới ấy về sau không ai làm to bằng. Có cả quan huyện xuống ăn mừng. Còn Cao được cô Nuôi, người con gái tàn tật ế chồng nhặt về thuốc thang, và họ ở với nhau nên vợ nên chồng.
Những đêm trăng, bao giờ Cao cũng đến gốc cây Sun ngửng mặt lên nhìn những vì sao mà than vãn:
- Đời hỡi đời! có số phận nào tốt đẹp cho người nghèo được mở mày mở mặt ra không?
Một đêm, Cao ngủ quên ngay gốc cây Sun thì có người đánh thức dậy, ghé vào tai thì thầm "Cứ thế... Cứ thế... mà làm”. Sáng mai Cao đến nhà Chánh Trương thật sớm. Cha con lão đang ngồi bên bàn trà. Lão bố quát:
- Đỏ Cao mày đến làm gì sớm? - Dạ thưa ông, con muốn đến hầu chuyện ông ạ! - Nói đi, tao nghe xem có lọt tai không nào! - Thưa, ông không còn lạ gì thân con. Con có mối thù cùng chánh Thành. Con muốn làm nô lệ cho ông, đào ao thả cá, giàu có bạc vàng lại trị cha con nhà chánh Thành ạ!
- Là thế nào? - Người ta vẫn nói: "Thứ nhất giã cá, thứ nhì gá bạc". Bây giờ ruộng vườn ông thiếu chi, ý cháu muốn ông nên đào ao lớn vài chục mẫu mà nuôi cá quanh năm. Cái lợi không biết đâu mà kể.
Máu địa chủ ham giàu bốc lên, lão chánh Trương vỗ đùi khen phải. Lại có thằng con được Cao nhiều lần giúp sức đánh bọn ba làng hùa vào nên việc coi như xong.
Cao hăng hái cùng lữ cùng đinh ra nhổ lúa đào ao. Đào ròng rã một năm trời, một hồ cá mênh mông ra đời. Nước mưa nước phân chảy ráo xuống hồ nên cá của lão Trương chóng lớn. Cá béo đến nỗi biếu quan huyện ngài cứ tấm tắc khen và thưởng cho sáng kiến làm lợi kinh tế và dân trí của lão Trương.
Vì dân mấy làng chưa bao giờ được tắm táp thoải mái như vậy.
Sáu làng còn lại Cao cũng đến khuyên nhủ và do óc hiếu thắng kích động nên thi nhau đào. Thế là một đồng lúa mênh mông ba bốn chục mẫu ruộng thành ao hồ liền nhau.
Lão Cao không mất gì nhưng có nơi mà chăn vịt. Nhìn đàn vịt của lão bay kín cả mặt nước bọn chức dịch bàn nhau phải bắt Cao nộp thuế. Thế cũng chưa đủ, chúng bắt từ trai gái già cả trẻ con trong làng phải nộp thuế ra hồ để tắm. Dân căm thù lắm nhưng đành thở dài mà chịu đựng.
Cao không ngủ được vì hàng năm phải chọn vịt béo nộp cho bọn hương lý của sáu làng để nhờ hồ nước. Như có trời xui, Cao nghĩ ra được mẹo. Xui cho bọn trai tráng các làng gặp kỳ mưa bão, bơi ra các bờ ao dùng que mà bới cho không còn ranh giới nữa.
Thật lạ lùng, một sáng cả làng mở mắt ra ao rửa ráy đã thấy mênh mông không còn bờ nhỏ nhẹ con trạch ở đâu. Bảy thằng lý trưởng của bảy làng không thằng nào chịu nhau về ranh giới địa phận. Mà lúc đào thì dễ, lúc đắp con trạch đào đâu ra đất. Thôi thì mạnh cánh nào cánh ấy ra mà quét cá, tranh phần.
Bảy làng đánh nhau chí tử. Chúng cho tay chân đến ỉa cả đầy cổng nhà hào mục. Tình hình náo loạn kéo dài một năm, quan huyện mới thị sát truyền rằng: "Tất cả không được để cho cá nhân, giao về cho hàng xã quản lý. Hàng năm đánh bắt chia cho các làng. Nhưng bù lại phải nộp trả lại cho quan và xã bằng lúa."
Bọn hương lý, kỳ hào lạ gì lòng tham của quan lớn, cái cảnh cha chung không ai khóc lấy ai ra mà lo. Chỉ khổ mấy thằng đầu sai mà thôi.
Người ta nhớ đến cái tội đi vận động đào ao của lão Cao nên lập một án là đuổi cổ lão khỏi làng đi đâu thì đi. Hãy mò mặt về làng là mọi người có quyền đánh, dù chết cũng phải chịu.
Nói như vậy thôi nhưng dân đen có ai đụng đến, chỉ bọn chức sắc là đầy lòng thù oán do lòng tham bị chạm đến.
Nhưng cũng tại cái số lão Cao phải bỏ làng ra đi là phải rồi. Bởi trong lòng lão đam mê Liên đến không ăn không ngủ được. Đến nhà lão không dám. Gặp nhau bất chợt lúc trên đường đến chào hỏi cũng không được, huống chi cầm tay, nói chuyện.
Chiều lại mệt mỏi đến chết người, lão cũng cởi trần mặc chiếc quần đùi vá chằng vá đụp ra hồ tắm. Lão cố trương mắt nhìn sang bên kia hồ. Dù xa đến hút mắt lão vẫn nhận ra người con gái trắng mẩng đang khỏa nước dưới hồ. Làm sao được, trận đòn ngày xưa lúc trở trời vẫn làm lão đau ê ẩm. Nhưng trái tim không tha cho lão niềm đam mê. Lão nhìn đăm đăm vào thân thể trắng toát mà mỗi lần động nước đang lan sang lão. Ước gì ta được ôm thân thể kia nhỉ? Lão hít thật căng lồng ngực và nhằm vào phía bên kia bờ mà lăn tới.
Có lúc mệt quá lão định ngoi lên để thở nhưng lại sợ lộ. Cao cố thêm từng giây. Đây rồi, mở mắt ra nhìn thấy cơ thể của nàng nồng nỗng vàng chóe dưới nước. Nhưng cốt nhất đừng làm cho nàng sợ. Cao ngoi đầu lên từ phía sau nàng khẽ nói:
- Liên đừng sợ nhé!
- Ối trời ơi! Anh Cao...
- Tôi xin em! Mai tôi đã bỏ làng này rồi. Liên cho gặp lần cuối cùng!...
Liên đổ vào hai cánh tay Cao. Nước trong hồ cũng rùng mình đóng những giọt nước mắt của họ đang tan ra.
- Đừng... Nó đánh anh chết mất!
- Có chết cũng được... vì đằng nào anh cũng phải chết mà em!
Tiếng la lối ở trên bờ. Liên đẩy Cao ra nói hổn hển:
- Anh chạy đi mau lên nào!
Tiếng mõ khua liên hồi từ trong điếm nổi lên. Tiếng lội ào ào xuống hồ mở cuộc càn quét.
Cao nổi lên nơi một bờ dứa cạnh hồ, nhưng bị bọn dân vệ đổ xô ra tóm được. Cha con lão chánh Thành gào lên:
- Bắt sống lấy nó!
- Trói, gô cổ nó vào trong đình kia cho tao.
Cả làng xã nổi mõ trống lên như động rồ. Tất cả dân hàng xã được lùa đến đình, người hiếu kỳ đã đành, kẻ sợ đòn roi và sợ máu không muốn nhìn cũng không thoát.
Chánh Thành, lúc này thế lực lớn nhất xã vì giàu có, lại được huyện cho cai quản hồ cá nên có coi ai ra gì. Nó thét lác:
- Phải xử chém về tội hiếp dâm gái có chồng!
- Không được, phải xéo buồi nó đi cho hết gây ra cái tội đ... rông! - Nói rồi thằng Thành lấy con dao nhọn chọc vào mắt Cao. Cả con mắt phụt máu vào người làm nó rú lên ôm lấy mặt. Cũng may mà nó đánh rơi con dao. Bọn đàn em hồn xiêu phách lạc không dám cầm dao để cắt buồi của Cao. Thành ra Cao còn có cái để mà vui. Với lại bọn quan làng động lòng thù địch với cha con lão chánh Thành nên mới truyền:
- Mất một mắt là được rồi!
- Cút mẹ cái thằng hiếp vợ người ta ban ngày ban mặt đi!
Cao được người vợ tật nguyền chữa chạy cho khỏi bệnh. Từ đó, chỉ có độc một con mắt. Một hố còn lại luôn nhìn đời một cách ngạo mạn. Hễ ai nhìn thấy con mắt ấy là y giật mình, phải ngoảnh đi nơi khác.
Cao ra chiếc cồn bỏ hoang làm chiếc lều chăn vịt. Người làng chỉ nhớ đến Cao mỗi khi có việc gì khó nhọc. Bọn quan lại cố đặt điều kể về chiếc hồ rộng ba mươi sáu mẫu do trời sinh ra. Nhưng dân làng biết rất rõ, cái hồ ấy là hồ lão Cao... cái hồ ấy mang tên lão Cao như một danh nhân.
Đến dạo cải cách người ta tìm người làm chủ tịch xã. Người ta à lên, nhớ đến lão Cao nơi cồn vịt.
Thế là một đồn lên mười, mười khuếch lên trăm rằng lão Cao sắp làm chủ tịch đến nơi rồi. Kẻ nịnh nọt để cầu lợi, kẻ có dính đến tội ác muốn được tha thứ tìm đến gian lều của lão. Từ lúc mờ sáng đến khuya khoắt, không lúc nào lão được yên. Không giường chiếu họ ngồi bệt xuống cỏ rả mà nói chuyện mà trình bày, xin ý kiến... Có người khuyên nên trả mối thù chánh Thành cho hả. Có người chân thật lại khuyên nên lấy quách luôn con vợ nó vì đàng nào có thời "cụ chủ tịch" đã yêu cơ mà.
Ông Cao nghe mà sướng cái bụng. Thật ra ông cũng muốn làm một keo thử xem sao, ông tưởng tượng dở chiếc xà cột vải ra lấy sổ sách, quát vào mặt những thằng mất dạy.
Xung quanh ông sẽ có nhiều kẻ hầu hạ - cả xã phải xu nịnh ông. Và một điều hằn sâu trong ông là cho cha con chánh Thành biết tay. Cao này sẽ quát vào mặt: "Biết chưa hả? Quân bóc lột!" Liên sẽ khóc lóc van xin. Phải ta sẽ tha cho Liên. Còn cha con lão Thành thì: - A lê hấp!. Nhưng một sự kiện làm cho cả xã phải ngạc nhiên. Là vị chủ tịch tương lai có liên hệ với địa chủ. Mà với chính nhà Chánh Thành. Tại sao chúng lại có trứng vịt để ăn? Đã bắt cả nhà nó phải cởi truồng ra để soát rồi, có đồng xu nào đâu? có người phát hiện ra, vợ chồng nhà thằng Thành mò ra cồn vịt.
Ông Cao bị gọi lên tổng đội tra hỏi.
- Ông có liên quan gì với tên Thành?
- Có!
- Ông cung cấp cái ăn cho nó ngoan cố với cách mạng phải không.
- Phải!
- Vật chất gì?
- Đào ao thả cá!
- Có dư luận ông cho nhà nó cái ăn. Vì đã tịch thu toàn bộ tài sản của chúng rồi sao lại có?
- Chắc ông cán bộ nào cho nó.
Người ta không moi được gì ở ông Cao. Nhưng uy tín của ông bị giảm đi trông thấy. Ông nhớ như in, một đêm ông định đi ngủ thì vịt la lên như báo động. Tưởng có kẻ nào đến ăn trộm vịt, ông quát lên: - "Đứa nào láo với ông đấy?"
Một bóng đen rách rưới quỳ mọp xuống chân ông, khóc nức nở: Anh thương lấy em... Anh Cao! - Ông hoảng hồn vì Liên tiều tụy như bóng ma ôm lấy ông. Ban đầu ông căm lắm.
- Đến có việc gì?
- Em đến... vì các con em đói.
- Ai bảo đến?
- Dạ... do em ạ!
- Láo!... có phải cha con thằng Thành xui không?
- Không ạ!
- Cô nói thật đi không tao cho du kích bắt bỏ tù!
Nói cho oách chứ ông đã làm chủ tịch đâu, chỉ có lũ vịt là quân của ông ngoài kia, mà xã đang nợ đìa ra vì mua chịu làm thức ăn cho đội.
- Dạ... chồng em...- mà... thằng Thành xui ạ!
- Nó xui mày ra ngủ với tao để phá hoại cách mạng, đánh đổ chức chủ tịch của tao hả?
- Trời ơi! Anh tha tội chết cho em... Em vạn lạy anh em thề có mặt con em... Anh không thương thì thôi... Không có đánh đổ cách mạng... chủ tịch... mà đói... cha nó đang hấp hối... chỉ thèm quả trứng vịt... vâng... Em không đi... nó đánh con sưng cả mặt mày đây anh...
Liên cầm bàn tay anh đặt lên mặt. Anh rờ rẫm như một thói quen. Anh chửi thầm, ra đồ khốn nạn nó cướp vợ ta, cướp cuộc đời ta... Lại cho vợ ra ngủ với ta mong tìm đường sống... ôi nàng... nước mắt Cao chảy dài xuống hai gò má... Cao quát lên:
- Gọi nó ra đây!
- Em xin anh!
- Gọi nó ra đây cho tao không chết ráo!
Liên chạy một mạch về nhà. Lão Cao đi đi lại lại chờ đợi. Một lát sau hai bóng xiêu vẹo dẫn nhau đến lều vịt. Chúng bò bằng tay đến quỳ vọp xuống chân Cao.
Ánh trăng vượt qua ngọn núi Nứa, soi rõ bộ mặt trắng bệch của chúng. Lòng căm thù bốc cháy trong lòng ngực Cao. Hố mắt trống trơ đen ngòm quét vào mặt chúng. Cao quát:
- Thằng khốn nạn, cởi quần áo vợ mày ra!
Thằng Thành run run lúng túng giằng kéo mớ giẻ nơi người vợ hắn. Một cơ thể mịn màng phô bày dưới ánh trăng. Cao lấy con dao nhọn làm chúng run bắn ôm lấy đầu gối anh. Anh chạm vào hai đầu vú của Liên, làm toàn thân Cao trở nên run rẩy.
- Buông ra! - Cao đến lều vịt, xắn một bãi cứt vịt tanh tưởi.
- Thằng kia! Tao ngủ với vợ mày xong thì mày phải ăn hết chừng này cứt vịt. Tao cho một thúng trứng và tha tội chết cho nghe chưa!
- Dạ... xin ông cứ sai khiến ạ!
Cao rùng mình, ớn lạnh. Anh nhìn thấy người yêu của mình trần truồng nằm ngửa ra bãi cỏ. Nước mắt chảy tràn làm ướt cả khuôn mặt. Còn thằng Thành mặt méo xệch... khổ não. Cái khổ não mà suốt đời Cao không bao giờ có dịp nhìn thấy lần thứ hai. Anh phải ngoảnh mặt đi không dám nhìn vào dáng quì như con chó của nó. Chỉ cần anh nằm lên người Liên là nó phải nhai nuốt hết bãi phân vịt.
Cao sửng sốt và đau đớn. Tiếng vịt kêu như thúc giục Cao hành động.
Anh quát lên:
- Mặc lấy quần áo... Đồ khốn nạn...
Thằng Thành lao đến chân anh như con chó ôm lấy chân chủ. Anh đạp nó ra xa, và chỉ vào đống trứng.
- Cho vào thúng mà đội về!
Người ta tất nhiên không đưa Cao làm chủ tịch xã. Cao cũng tắt lịm ham muốn từ hôm đó. Anh cũng từ chối việc nhận nhà chia quả thực. Người ta bảo anh ngu. Anh xây cho vợ tàn tật ngôi mộ ở cồn vịt, người đó là ân nhân của đời anh. Và cả một đời dù mùa đông hay mùa hè Cao đều mặc áo bông nằm nơi lều vịt. Lão thích ăn tí cá khô, còn canh chiêu bằng nước lã.
Tôi được nghe bao chuyện của lão, nhưng có lẽ chuyện tha chết cho vợ chồng thằng Thành làm tôi thắc mắc. Tôi hỏi lão:
- Tại sao ông lại làm như thế? Ông không thích bà Liên hay sao?
- Có chứ cháu. Ông yêu bà ấy mà. Ông có thể làm ngay trước mặt thằng khốn nạn. Nhưng ông yêu bà ấy - Ông không muốn bà ấy bị sỉ nhục - Ông cười buồn đến não ruột - Thằng Thành có thể nó giết bà ngay đêm ấy. Nó sẽ bị tù tội... con cái nó cù bơ... và hận thù chồng chất lên nhau...
* * *
Khi người ta phát hiện ra ông Cao chết thì đã muộn. Mối đã đùn lên thành gò không ai dám moi ra cho vào quan tài. Bầy vịt hơn một ngàn con vắng lão đã bay đi mất cả. Có lẽ về trời. Lúc nhớ nhung chủ nó vẫn bay về đó để ngủ trú tạm qua đêm.
Còn lão Thành và bà Liên nghe đồn sau cải tạo về làm lại thành phần nông dân lao động. Con cái của họ khá lắm! Đứa đại học, đứa liệt sĩ, đứa thành đảng viên, có chức có quyền. Nhưng hàng năm về mùa xuân họ vẫn đến lều vịt tảo mộ. Có người bảo, vì nhớ ơn lão Cao, có người nói vì lão thiêng lắm giúp cho con cháu nhà lão Thành làm nên. Có người đặt điều nói điêu, có đứa con giống hệt lão Cao, nó có chức vụ to nhất nhà. Nếu bấm tuổi vào cái ngày lão lặn qua hồ sang... Tất cả đều bịa đặt hết, chỉ có điều này là có thật. Cái hồ nước mà còn đến ngày nay là do sáng kiến của lão. Dân quanh vùng vẫn gọi là hồ nước Lão Chột. Nước ở đây quanh năm mát mẻ là công của lão lắm.
Còn tôi nhớ lão, mỗi lần kể một câu chuyện lão thường nói đai giọng - Nài... bai... lão kể cho nghe chuyện này, hay lắm! vãi đái ra cho mà xem!
Phố Đội Cung, Thị xã Thanh Hóa
T.N.T
(TCSH56/07&8-1993)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.