HẠ NGUYÊN
Ảnh: Nguyễn Ngọc Anh
Những kỷ niệm rời trên sóng nước
Năm ấy, mùa đông 1989, đã cách đây 30 năm. Tôi mang trong mình tâm hồn phóng khoáng của một gã sinh viên vừa ra trường bắt đầu tập tành viết báo, với chút ít chữ nghĩa ăm ắp nồng nàn sóng biển, tấp tểnh đạp xe từ Huế về với Lăng Cô. Cùng đi với tôi lúc đó, là nhà thơ Thiệp Đáng, sống trong một phủ đệ dòng dõi triều Nguyễn. Sau gọng kính cận dày cộm, đôi mắt Thiệp Đáng siêu thực hóa mọi hình ảnh thu vào mắt; kiểu như “lá mọc trên đầu tôi vào lúc nửa đêm nguyên tiêu/ từ đó tôi hóa nên một thực thể xanh biếc”. Hình ảnh thì có thể siêu thực hóa, nhưng âm thanh sên xích xe đạp của cả hai cứ rộn ràng dọc đường thì không thể. Vậy mà cái âm thanh rền vang ấy cũng bị lãng quên sau khi vượt qua 60km, chân chạm mép nước, cả hai không nói nhưng lòng đã reo lên: “Đây Lăng Cô, đây Lăng Cô, cả người ta đã ngập trong sóng nước”.
Bãi cát trong nắng vàng chiều thu tuyệt đẹp, một màu vàng như mơ, chưa bao giờ thấy màu vàng ấy hắt lên bức tranh nào thuở đó. Đương nhiên, màu vàng ấy cũng chưa bao giờ hắt vào mắt tôi. Biển xanh, cát và nắng vàng, trên trời mây trắng lang thang. Và sóng biển, như thể cũng muốn chào một đôi lời thân thiện với những kẻ lang thang tìm thú vui hòa cùng thiên nhiên là hai chúng tôi lúc đó.
Chiều cuối ngày, chúng tôi được mời vào căn lều của một người có chức sắc ở vạn chài Lăng Cô. Ở đó nhữngngư dân lực lưỡng đang cạn những chén rượu cuối cùng trước giờ xuống thuyền ra khơi. Họ cạn với chúng tôi vài ly rồi bước ra khỏi căn lều, hè nhau xeo thuyền rồi ngược con nước rời đầm ra biển. Chúng tôi được mời món tiết canh sò huyết được chế biến khéo léo bởi người vợ lão ngư, một phụ nữ già đuôi mắt đã hằn những nếp nhăn. Sò huyết Lăng Cô nổi tiếng ngon nhất là cuối tháng bảy, mùa biển lặng. Người phụ nữ dùng dao chẻ đôi những con sò để lấy huyết tươi vào trong chén, rồi nêm gia vị, tạo nên sự hấp dẫn lạ lùng. Những con sò được tách ra, làm chín trong nước cốt chanh trong đĩa, rưới nước tiết sò huyết, rồi rắc lên trên hành ngò, rau ngò gai. Vị tươi nhưng không tanh, nồng nhưng không gắt, chiêu thêm ngụm rượu đế xem ra ấm dậm như sóng biển lặng mùa thu. Ấm dậm cả vào giấc ngủ không biết đến với tôi lúc nào.
Tinh mơ hôm sau, trời còn tối đen, bỗng bị đánh thức dậy, bị kéo cả cánh tay ra khỏi giường rồi ấn xuống cái bàn đã bày biện sẵn một cái thau lớn được úp đậy bằng một cái nón lá. Trên bàn có mấy chai rượu trắng nút lá chuối để sẵn. Quanh chiếc bàn dài được chiếu sáng bằng mấy ngọn đèn dầu, có chừng mười lăm người đang ngồi, hút thuốc lá vấn, nói cười ồn ào vui vẻ. Tôi lơ mơ nhìn quanh chưa định hồn xem cái gì đang diễn ra, Thiệp Đáng đã thông báo: chuẩn bị ăn gỏi cá me. Thì ra tối qua, ngư dân đánh được nhiều cá, trong đó có thúng cá me. Vào bờ, họ nhón một tí làm gỏi, đưa cay vài chén rượu rồi đi ngủ, lấy sức chiều lại ra khơi. Chừng xoay vòng vài ly, có người giở cái nón lá ra. Ồ, cả một thau cá me tươi roi rói. Gỏi cá me, cũng làm chín bằng chanh, ớt, tỏi, gừng, nhưng mà vị cá nó không tanh, mà bùi lạ. Cho đến khi nắng lên đổ bóng dài, tôi lại ngây ngây trong tiếng sóng vỗ rất gần ngoài kia, cuộc rượu tan ai về nhà nấy, ngủ để lấy sức chiều ra khơi. Lăng Cô đã đón chúng tôi hào sảng như thế.
Đến chiều thì chúng tôi tiễn các ngư dân ra biển. Những con thuyền xếp đều như nêm, mỗi con thuyền là những chắt chiu để nuôi sống gia đình, song lòng thuyền lòng người vô cùng rộng mở. Những nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt những con người cần lao đó, chợt thấy hạnh phúc sao quá đỗi giản đơn. Vạn chài Lăng Cô đẹp một cách thuần khiết như thế, khiến nếu đã đặt chân đến đều bùi ngùi muốn trở lại, đi thêm lần nữa cho thấu lòng nhau.
Sau này tôi có kỷ niệm khó quên, đi dọc đường ray giữa trưa hè gay gắt từ ga Lăng Cô vào Hói Mít để viết về những đứa trẻ con ở đó không có trường để học. Bài báo in xong, trẻ em Hói Mít được các nhà hảo tâm xây lớp học. Tôi nhận ra nụ cười của mình cũng rạng ngời như bọn trẻ nơi đây.
“Vẻ đẹp giết chết thi sĩ”
Ngày đó, rời Lăng Cô về Huế, thi sĩ Thiệp Đáng chép vào sổ tay tôi bài thơ mới làm xong, cái tên rất dịu dàng- “Vẻ đẹp Lăng Cô”, mở đầu như một giai điệu slow dìu dặt:“Điệu slow ru ngủ những ghềnh đá”. Nhưng đến lúc cao trào thì quá sức riết róng: “Lăng Cô! Lăng Cô! Lăng Cô… Vẻ đẹp giết chết thi sĩ”.
Ô, có phải khi thi sĩ bị vẻ đẹp giết chết, thi sĩ sẽ không làm thơ nữa?
Nhìn từ trên cao xuống, Lăng Cô hệt như một hòn đảo nhỏ với bãi cát mịn màng trải dài, được bao bọc bởi thẳm xanh nước biển. Cơ hồ như màu xanh Lăng Cô được phối nên từ xanh lá của núi rừng, xanh dương của bầu trời và xanh ngọc bích của đại dương; màu trắng của Lăng Cô được phối từ màu mây trên cao, màu sóng vỗ nồng nàn lên bãi cát; màu vàng từ dãi cát vàng ngập ngời trong nắng. Màu trắng, màu xanh, màu vàng được tạo hóa pha màu rất riêng, không có trong bảng màu của họa sĩ nào, chính là màu Lăng Cô.
Về sau này, tôi có những buổi chiều về lại đây tìm nhớ ngày xưa. Vạn chài giờ không còn lều cỏ, thay vào là những ngôi nhà cao tầng no ấm. Tôi cũng tìm cho mình những giờ phút thanh thản trong đời. Buổi chiều trở nên thật thoải mái và nhàn hạ hơn khi đặt lưng xuống một cái ghế nào đó có mái che, ngoài kia nắng vàng không vội, tiếng sóng vỗ bờ như nhắc điều chi đó vừa xa xôi, vừa thật gần. Rồi khi nắng chiều buông xuống, toàn Lăng Cô chìm dần trong màu vàng pha sắc đỏ huyền ảo, trời và biển như hòa làm một, những người làng chài lại vác chèo xeo thuyền ra khơi.
Lăng Cô - “vẻ đẹp giết chết thi sĩ”.Lăng Cô đẹp đến cỡ nào? Ai tìm ra Lăng Cô?
Sách vở nói, người tìm ra Lăng Cô chính là vua Khải Định. Vua lên ngôi vào tháng 5/1916. Sau đó hai tháng, tháng 7/1916, nhà vua mở một cuộc du lãm các thắng cảnh từ Huế đến đèo Hải Vân. Đầu thu năm đó, vua Khải Định đã phát hiện ra bãi biển Lăng Cô được bao quanh tứ bề thắng cảnh: Phía bắc là cửa biển Cảnh Dương ở mũi Chân Mây huyền hoặc, phía nam là Hải Vân Quan chất ngất, phía tây bắc là núi Phú Gia chập chồng, mờ ảo bên kia đầm An Cư, và phía đông là đại dương mênh mông, dập dồn sóng bể. Khi trở lại Hoàng cung, vua ban lệnh xây dựng một “hành cung” ở Lăng Cô để nhà vua nghỉ mát vào mùa hè, và thỉnh thoảng rước hai bà mẹ, là bà Thánh Cung (mẹ đích) và bà Tiên Cung (mẹ ruột), về đây hóng mát. Vua lại đặt tên cho hành cung này là “Tịnh Viêm” (nghĩa đen: làm dịu sự nóng nực). Sau đó gần 3 năm, dừng chân Lăng Cô, vua Khải Định tức cảnh sinh tình viết một bài văn, cho khắc vào bia đá, dựng ở Lăng Cô để kỷ niệm. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An tạm dịch:
“Bài văn bia Hành cung Tịnh Viêm do vua Khải Định ngự chế.
Vào tháng sáu mùa hè năm đầu Trẫm mới lên ngôi (1916), nhân dịp đi tuần du trong tỉnh để xem xét phong tục, xe loan hướng về phía Nam, vượt qua sông núi, không đâu không nhìn ngắm kỹ, bỗng gặp được chốn này. Ở đây, đất liền núi Phú, bãi cát giăng ngang, nước tiếp đại dương, sông chảy quanh quất. Núi non cao ngất ôm phía sau, đầm nước trải dài về phía trước. Phía Nam giáp với Hải Vân quan, phía Bắc liền với cửa biển Cảnh Dương. Thôn yên đảo vắng, nơi nơi cây biếc ráng hồng, bãi hạc đầm cò, thỉnh thoảng vọng tiếng tiều phu và nhịp chèo ngư phủ. Trông về núi thì thấy những cụm mây kỳ ảo bay lên từ hang hốc như các tiên nữ đang múa ở non bồng, nhìn xuống nước thì gió trong xua sóng chạy, như muôn ngựa cùng chầu về trên biển. Bấy giờ mới dừng xe loan trông ra bốn phía, nhìn rõ càng vui mắt, thấy nào là khí lành, nào là gió dịu, nào là cảnh vui, nào là vật đẹp. Đắm nhìn một hồi lâu, bất giác cả người mát rượi, sự nóng nực tan biến, lòng thấy hớn hở hẳn ra, và xúc cảnh sinh tình. Đến ngày quay xe trở về, liền ban sắc bảo Bộ Công đến đó xây dựng hành cung, đặt tên là hành cung Tịnh Viêm, để làm nơi nghỉ mát giữa mùa hè và thỉnh thoảng rước hai Hoàng Thái hậu về tránh nóng và ngắm cảnh. Khi đến đó, các ngài cũng cảm thấy hài lòng.
Vậy thì đây không phải chỉ là nơi giúp riêng một mình Trẫm vui thú lúc rảnh rang, mà còn cần phải ghi chép để lưu lại về sau một nơi nghỉ mát và một thắng cảnh. Vì thế cho nên làm bài văn này để khắc vào bia đá.
Ngày 24 tháng 2 năm Khải Định thứ 4…”.
Phố thị tương lai
Thích thú nhất ở biển Lăng Cô có lẽ vẫn là tản bộ trên bãi cát phẳng dài, cảm nhận từng lớp cát mịn màng sẽ sàng in dấu chân, rồi mặc sóng ùa khỏa lấp. Rồi nghĩ về một tương lai xanh của vịnh đẹp. Lăng Cô, vịnh biển đẹp của Thừa Thiên Huế là thành viên Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới suốt 10 năm qua, từ 2009-2019.
Với thương hiệu quốc tế này, Lăng Cô đang thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư, nhiều khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng, góp phần phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và của cả khu vực miền Trung.
Chỉ vài năm nữa thôi, Làng Cò ngày xưa đã thay áo như hôm nay, lại sẽ thay thêm lớp áo mới, nền nã, đẹp đẽ và sang trọng hơn. Bởi những chủ nhân ở đây đang biết cách gìn giữ và phát huy giá trị vịnh đẹp Lăng Cô, một cách thật sự hài hòa với thiên nhiên…
![]() |
Ra đầm - Ảnh: Phạm Bá Thịnh |
H.N
(SHSDB33/06-2019)
TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.
HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.
NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.
VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…
NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.
DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.
YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.
NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.
HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.
NGÔ MINH Ghi chép
NGUYỄN THANH TÚ Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.
NGUYỄN QUANG HÀ Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này: “Đánh cho giặc Mỹ tan tành Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”
…Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…
NGUYỄN XUÂN HOÀNG Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...
NGUYỄN VĂN VINH Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui