Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, Phong về làm biên tập ở Tạp chí Sông Hương, rồi làm Thư ký tòa soạn. Chỉ trong vài năm, Phong đã có những tác phẩm hay, nhưng không dễ đọc như Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc (tập truyện ngắn, Nxb. Văn học và Phương Nam book, 2011), Trong tiếng reo của lửa (tập truyện ngắn, Nxb. Trẻ, 2015, Giải thưởng Cố đô Huế), Điều tìm thấy (tập truyện ngắn, Nxb. Đà Nẵng và Domino, 2019), Đường đi (tiểu thuyết, Nxb. Đà Nẵng và Domino, 2019). Nhưng rồi Phong đột ngột chuyển sang vẽ. Đầu tiên là tài tử, rồi sau là vẽ chuyên nghề. Thậm chí, anh nghỉ việc ở Tạp chí Sông Hương để sống bằng nghiệp vẽ. Cũng chỉ vài năm tranh của Phong đã ra mắt công chúng bằng các triển lãm cá nhân, như Bên trong (Trung tâm Văn hóa Pháp, Huế, 2015), Nối tiếp (Trung tâm Văn hóa Pháp, Huế, 2018), Thiên di (Hakio - Let’s Art, Sài Gòn, 2022) và một vài triển lãm nhóm.
Tuy có vẻ như tạm ngừng viết, nhưng vẽ lại chính là sự kéo dài và phát triển dưới một hình thức khác của văn chương Lê Minh Phong. Vẫn những huyền thoại, cổ tích, giấc mơ, nhất là những chấn thương ấu thời, nhưng lần này Phong trình hiện bằng một ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ hình - tư tưởng. Phù hợp với vận động tư tưởng của anh. Phong bắt đầu với thời kỳ Đỏ, thời kỳ Đen rồi đến thời kỳ Nấm mốc da cây và Đỏ gỉ sắt. Hội họa của Phong, như vậy, ngay từ đầu đã là nghệ thuật ký hiệu - biểu tượng. Trong bài viết này, tôi chỉ nói về Thiên di, nhưng cũng là nói về toàn bộ tranh Phong và cấp cho bạn đọc chiếc chìa khóa để mở vào văn chương của anh. Văn chương và hội họa, như vậy, là đôi cánh đưa Lê Minh Phong vào cõi Tưởng và cõi Tượng của Nghệ thuật.
*
Thiên di không chỉ là nhan đề một vựng tập (Hakio - Let’s Art và Nxb. Mỹ Thuật, 2023) của Lê Minh Phong, mà còn là chuyến-đi-đờingười của họa sĩ. Khởi thủy, với Phong, là giấc mơ. Và, giấc mơ khởi thủy ấy là huyền thoại về các chuyến đi của nhân loại. Đầu tiên có thể là những thiên di của người ngoài hành tinh đáp xuống trái đất để góp phần tạo ra con người/homo sapiens ở phòng-thí-nghiệm-địađàng (X. Hành tinh thứ mười hai của Zechasia Sitchin). Hoặc những lần rời bỏ quê hương sau các thảm họa vũ trụ. Mà gần đây, nhất là thời kỳ băng tan, biển tiến biển lùi, còn ảnh xạ trong những truyền thuyết ở Địa đàng phương Đông (X. Stephen Oppenheimer) hay trong Kinh thánh phương Tây.
Trong mơ mọi hình ảnh đều rời rạc, xa cách, hoặc chồng lấn, khiến người xem tranh phải tìm cho được một ngữ pháp. Ở Thiên di (mà chữ thiên không chỉ có nghĩa là nghiêng lệch, chủ đạo, mà còn là tiên thiên, định mệnh) tôi thấy ít nhất có ba cuộc đi. Một, những di cư đầu tiên của nhân loại, hoặc từ Đông Phi, hoặc từ Tây Tạng lan tỏa khắp mặt đất. Con người, bởi vậy, ngoài là động vật kinh tế, động vật chính trị, động vật chơi, còn là một động vật di cư. Đi là tự do. Trước là tự do khỏi thiên tai địch họa (cả ngoại xâm lẫn nội xâm), sau là tự do để được là chính mình, trở thành chính mình, một thứ mình hơn. Từ tự do khỏi đến tự do để, con người đã vượt qua không gian địa lý, không gian xã hội đến với không gian tinh thần, tâm lý, tâm linh.
Như vậy, tự do để chính là tiền đề cho chuyến đi thứ hai của cá nhân mỗi người. Con người được sinh ra thì đã đa mang trong mình vô thức tập thể của nhân loại, một chân ngã, hay tự ngã theo Jung. Một khái niệm cứu cánh luận cho rằng mục tiêu của sự phát triển nhân cách là tổng thể, tức là trở thành con người toàn vẹn nhất trong hoàn cảnh cá nhân cho phép. Tự ngã là kết tinh toàn bộ những kinh nghiệm nguyên thủy, ban đầu của nhân loại. Nó có một cái nhìn toàn hiện, phi thời gian. Biểu trưng của tự ngã hoặc hình ảnh một ông già thông thái, một người cha nghiêm khắc, hoặc một người Đàn bà - Mẹ hiền từ, bao dung. Qua và bằng những giấc mơ, cặp hiền phụ từ mẫu phổ quát này, luôn theo dõi, mách bảo, chỉ dẫn đứa con bản ngã của mình trong suốt cuộc đời để nó thành toàn tự ngã. Chuyến đi cá thể hóa bên trong này của mỗi người chính là từ bản ngã, một cái tôi mong manh, giả tạm, tùy duyên đi đến, đúng hơn, trở về với tự ngã, một chân ngã hoặc vô ngã, cái bản ngã đích thực bất hoại, vĩnh viễn ấy. Hay, nói khác, đây là hành trình từ một ai đó đến không ai cả.
Chuyến cuối như là sự trải nghiệm cuội kết từ trong vô thức của hai chuyến đi trên. Và, với Lê Minh Phong, đó là một du hành nghệ thuật. Một sự ngoại hiện hóa, hình thức hóa tất cả những cảm xúc, trải nghiệm nội tâm vừa thoáng chốc vừa vĩnh cửu của người nghệ sĩ. Khởi đầu với các họa sĩ thuộc những khóa đầu của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, mà nghệ thuật của họ chủ yếu là Ấn tượng hoặc Hậu Ấn tượng, như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Tô Ngọc Vân. Chỉ ở những khóa áp chót, hoặc chót mới có những dấu hiệu của Lập thể, Siêu thực hoặc Trừu tượng trong tranh của Tạ Tỵ, Nguyễn Tường Lân… Ở đô thị miền Nam, thời kỳ 1945 - 1975, Hội Họa sĩ Trẻ thành lập nhằm chống lại “lối vẽ Bô da” do các thầy tốt nghiệp Mỹ thuật Đông Dương áp đặt. Các họa sĩ Nguyễn Trung, Đinh Cường bắt đầu vẽ theo trường phái Biểu hiện - Trừu tượng. Còn ở miền Bắc, đa số các cây cọ vẽ theo lối hiện thực xã hội chủ nghĩa. Một số ít tìm cách vượt thoát nguyên lý mớm trước bằng cách tìm về tranh dân gian và điêu khắc đình làng. Có ít người đi đến hiện đại từ truyền thống như Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng. Còn số khác cố gắng kết hợp các thủ pháp dân gian với hiện đại. Sự phá vỡ chuẩn khi chưa đạt chuẩn này của số đông còn lại đã tạo ra sự non yếu, hỗn tạp về phong cách. Điều này hẳn ít nhiều gây hoang mang cho các cây vẽ mới bắt đầu trổ lá đơm hoa. Trước tình thế đó, người ta chỉ còn một cố gắng tuyệt vọng là tự tìm cho mình một lối đi riêng.
Lê Minh Phong là một họa sĩ bẩm sinh theo cái nghĩa là người sinh ra để làm việc với hình ảnh, dùng hình ảnh để sáng tạo ra hình ảnh mới. Không thỏa mãn với những hình ảnh do bút viết tạo ra trong những tập truyện ngắn, tiểu thuyết vốn khá nổi tiếng, Phong chuyển sang bút vẽ để kiến trúc những hình ảnh trực tiếp, toàn hiện. Phong đọc nhiều biết lắm, nhưng biết là để vượt qua chứ không phải để áp dụng. Các trường phái hội họa thế giới và Việt Nam ít nhiều đã đi vào cổ điển nên đến với Phong chỉ như những con nước tràn qua để lại trong anh những hạt phù sa hay những viên muối mặn. Những hình ảnh của Phong, bởi vậy, phần lớn là biểu tượng. Anh dùng nó để tạo dựng cho mình một trường nghệ thuật mà không thuộc một phái nào cả. Hội họa Phong từ nghệ thuật biểu hiện qua các thời kỳ đỏ, đen đến nghệ thuật biểu tượng.
Như vậy, cả ba cuộc đi này, vừa địa lý vừa xã hội, vừa tâm lý vừa tâm linh, vừa bên ngoài vừa bên trong, vừa đời sống vừa nghệ thuật, không tiếp nối nhau, mà gối tiếp, bao hàm, xoắn luyến vào nhau để tạo thành Một. Thiên di, vì thế, không phải là một câu chuyện tuyến tính, có đầu có cuối, mà là nhiều câu chuyện chồng tầng. Như trong một giấc mơ lớn như đang cài vào những giấc mơ con. Nói đến chuyến mơ này là để hàm ngụ đến các chuyến mơ kia. Tất cả đều là biểu tượng. Cái nói ra nhằm chỉ cái không nói. Cái ngoại hiện, hữu hình ám chỉ cái vô hình. Tất cả tạo ra một loại hình tư tưởng vừa cụ thể sống động, vừa xa xôi, trừu tượng. Ở mỗi một bức tranh của Phong, các ký hiệu - biểu tượng xuất hiện chi chít như hoa lúc xuân về. Những âm thanh khác nhau cùng cất tiếng như một giao hưởng nhiều bè. Người thông diễn phải tham dự vào mê hồn trận ấy để tìm ra một mạch lạc nội tại, một sợi chỉ dẫn đường Adriane.
Cuộc lên đường bắt đầu từ bức tự họa chân dung tinh thần Lê Minh Phong trong Bản thân tôi (sơn dầu, 200 x 200 cm, tr. 4). Nhân vật, có thể nói, là một người-chim. Toàn thân người là chim. Một con khòm xuống đòi hỏi, mong mỏi sự nương nhờ, chở che tạo nên phần thân dưới, bản năng của nhân vật. Con khác vươn lên kiêu hãnh, đón gió tạo nên phần thân trên trí tuệ của con người. Rồi mắt chim, gương mặt chim, mái tóc cũng hình chim, thậm chí tư duy cũng vút lên như một cánh chim. Chim gắn liền với gió. Nhưng gió ở bức tranh này cũng như ở hầu hết các bức tranh khác của Phong không phải là gió một chiều. Mái tóc thì bay về đàng trước, khăn, áo choàng thì bay về phía sau, thậm chí có cơn gió đất thốc lên làm lông con chim đang lao xuống xẹp như một mũi tên. Đây có thể là một cơn gió quẩn, nhưng cũng có thể là cùng lúc nhiều cơn gió, vừa ngăn cản vừa nâng cánh. Minh Phong vừa là gió tối vừa là gió sáng. Một chân dung đa chiều kích, đầy mâu thuẫn như màu đen và màu đỏ đối lập nhau không chỉ lúc lên đường mà suốt cả hành trình. Người họa sĩ ở Lê Minh Phong, dẫu sao, còn ở trạng thái hòa đồng nguyên thủy, là một với thiên nhiên, với đồng loại, với vũ trụ. Viên ngọc ấu thời này nhiều gã trai khờ đã nhả bỏ để nhẹ thân vượt vũ môn thành người lớn. Riêng đám nghệ sĩ ngu ngơ là còn ngậm ngọc để làm một anh nhi suốt đời.
Những nhân vật lữ hành của Lê Minh Phong (Thiên di, sơn dầu, 200 x 200 cm, tr. 6) cũng là người đang ở trạng thái hòa đồng nguyên thủy. Họ không phân biệt con người với cỏ cây, muông thú, bởi đều cùng có linh hồn. Mà linh hồn thì không phân biệt dị đồng. Có điều ở nền văn minh động vật thì con người thường hòa/hóa thân thành chim, thành thú nên có những nhân sư, người cá, Dionysus chân dê, đầu sừng,… còn ở nền văn minh thực vật, như Việt Nam chẳng hạn, là những mẹ Mộc, bà Ỷ La (dựa vào cây), Ỷ Lan, bà Dâu… Trước khởi hành, cặp đôi nam nữ còn ôm bó nhau, hòa mình vào thân cây, hay như vừa bước ra từ cây. Họ đỏ toàn thân từ màu tóc, da thịt, quần áo đối lập với da cây màu xám mốc như tắc kè hoa hoặc màu rỉ đồng rỉ sắt. Cây có rễ bắt sâu vào lòng đất ngụ ý bản năng nơi chốn không muốn rời đi. Người đàn ông ở tư thế chính diện chuẩn bị bước đi, người đàn bà với chiếc áo khoác bằng vỏ cây ôm nghiêng người anh ta như muốn níu giữ. Tâm thế nước đôi, lưỡng lự này, một lần nữa, lại được thể hiện ở chỗ cành/cánh tay cây vòng ra đằng sau cầm giữ con chim đang muốn bay lên trước dẫn đường. Chim ở tranh Lê Minh Phong là biểu tượng của giấc mơ. Nó thuộc về nền văn hóa khác, văn hóa du mục, một tâm thức khác, tâm thức di cư. Nhờ di cư mà con người thoát khỏi cái bọc trăm trứng của hòa đồng nguyên thủy để trở thành cá nhân tập đoàn, rồi mãi sau đó mới là cá nhân cá thể.
Trong cuộc lữ hành này không chỉ có nhân cách con người được bộc lộ, mà cả giới tính của họ nữa. Có điều ở tranh Phong, nhân cách bộc lộ qua giới tính. Hai trong một mà rời nơi chôn rau cắt rốn ai mà chẳng nặng tình. Nhưng ở người đàn ông sự gắn bó với quê hương thiên về tinh thần. Hoặc anh ta nằm dài trên mình ngựa chìm trong nỗi nhớ mặc cho ngựa dẫn mình đi (Hoài hương, sơn dầu, 120 x 80 cm, tr. 9). Hoặc anh ta suốt cuộc lữ ngồi đờ ra trên ngựa quay mặt về phía mình vừa ra đi (Người lữ hành, sơn dầu, 30 x 80 cm, tr. 48). Còn người đàn bà thì nặng vào những phụ thuộc bản năng hơn, vật chất hơn. Tâm thức này ở họ được biểu đạt bằng sự ràng buộc với cây. Nếu ngựa là một vật di chuyển, thì cây là một vật đứng im. Nó ngăn trở sự ra đi của người đàn bà bằng nhiều cách. Trước tiên, cây như một người mẹ, tấm vải bằng vỏ cây vốn ôm quấn mẹ con nay căng ra như hai cánh tay giữ chặt lấy sự ra đi của con gái. Cô này trong hình tượng một con chim bay đi và bị giật lại. Một biểu tượng nhiều chiều cho Tâm thức lay động (sơn dầu, 300 x 200 cm, tr. 16-17) của con người từ nguyên sơ. Rồi suốt hành trình ấy, người đàn bà luôn mang theo cây bên mình như hình với bóng, như một vật bất ly thân, một cây thánh giá trước cả Jesus Christ. Trong Đêm hè (sơn dầu, 80 x 100 cm, tr. 9) người đàn bà cõng cây trên lưng như một người phụ nữ hiện đại gùi củi nặng. Còn ở Trò đùa (sơn dầu, 300 x 200 cm, tr. 25) là hình ảnh một phụ nữ bị “đóng đinh” lên cây bằng một mảnh vải đỏ như vải liệm của Chúa, một thánh tích mà đến nay người ta còn mải công tìm kiếm. Cây cũng là nơi Di trú (sơn dầu, 200 x 100 cm, tr. 29), là chốn nâng Giấc ngủ (sơn dầu, 100 x 200 cm, tr. 31), một giấc Ngủ trên cây, đúng hơn trong cây (sơn dầu, 200 x 100 cm, tr. 20), để đưa người nữ khách đến Bến đợi (sơn dầu, 140 x 200 cm, tr. 30) với một con thuyền rách nát và bản thân thì vẫn phải buộc vào cây.
Cùng với cây là chim, một biểu tượng song hành với con người suốt cuộc lữ. Chim ở tranh Phong là hình ảnh của giấc mơ, một giấc mơ ở phía trước, một giấc mơ tự do. Có điều ở đây là những con chim không vỗ cánh. Chúng bị săn đuổi. Chúng mang thương tích. Trong Cô gái và chim xanh (sơn dầu, 80 x 100cm, tr. 18) thì con chim mơ ước ấy được ấp iu nơi bụng, trong tâm chứ không phải được thắp sáng trong đầu. Tư duy từ hạ tầng cơ thể, nghĩ bụng, là di sản của người nguyên thủy, người phụ nữ, người mang âm tính (như Đông phương cổ truyền chẳng hạn). Biết đâu đấy chẳng phải là cách gìn giữ giấc mơ? Điều tạo nên Tâm thức bí ẩn (sơn dầu, 100 x 200cm, tr. 22) của con người? Khi con chim còn ở trong lòng thì còn sinh động, tự do, nhưng khi con chim đã ra ngoài hiện thực thì nó bị trói buộc bởi gánh nặng của nghĩa vụ. Nó bị cành cây cột buộc không bay được, hoặc phải cẩu một thân xác người nên cũng không bay nổi (Giấc mơ, sơn dầu, 100 x 200 cm, tr. 23). Để rồi trên sự đồng hành đó con chim bị cành cây xuyên thủng, hoặc tự tay con người bóp chết (Bạn đồng hành, 100 x 200 cm, tr. 24).
Một biểu tượng khác của chuyến đi là con thuyền. Ở đầu cuộc hành trình là hình ảnh con thuyền cũ nát và người đàn ông ngồi suy tư bên mạn. Viễn xứ (tr. 7) làm người ta nhớ đến con thuyền Nô-ê sau Đại hồng thủy. Có điều lần di cư này là con người chủ động đi gặp gỡ với chính số phận của mình. Họ ra đi bằng đôi chân trần của chính họ. Hẳn những chuyến đi sau đại hồng thủy. Cánh buồm mơ ước lần này là của một con thuyền trên cạn. Cột buồm là một thân cây còn sống rễ cắm sâu vào đất. Những cành cây xuyên ngang đỡ lấy vải buồm. Cô gái bị buộc chặt vào thân-cây-buồm. Một con thuyền như vậy, quả thật, rất khó đi đến cuối hành trình Cánh buồm của em tôi (100 x 200 cm, tr. 26). Nơi Bến đợi (tr. 36) xa xa là một con thuyền cô đơn trên cát…
Cuối cuộc đi như để án ngữ hành trình là hình tượng người cha. Đây không phải là người cha thông thái như một hộ thần, hiện thân của tự ngã, mà là biểu tượng của bóng âm, phần tăm tối nhất của vô thức. Con chim tượng trưng của giấc mơ đi tới bị cùm kẹp giữa hai khối sắt hình chữ nhật. Người cha mặc áo đại cán, bốn túi, có cái lon đỏ đeo lệch một bên vai, gương mặt vô cảm đứng canh cùm. Những ký hiệu - biểu nghĩa này làm người xem nhớ đến các nhà độc tài của xã hội toàn trị hiện đại (Cha tôi, 80 x 120 cm, tr. 33). Người này cũng có thể là di sản người cha bị mắc kẹt trong mặc cảm Oedipus ấu thời mà Phong chưa vượt qua được (?). Cha tôi, bởi vậy, như một bức tranh bản lề nối liền hai thế giới, một cánh cửa khép lại giấc mơ hướng ngoại, mơ về cuộc ra đi của người cổ xưa, còn cánh kia mở ra giấc mơ hướng nội, hành trình tâm thức, sự cá thể hóa, sự điều hướng của tự ngã với cái tôi của con người: giấc mơ của giấc mơ.
Trong suốt cuộc lữ, dường như để giảm thiểu cực nhọc, ngoài sáng tạo tình yêu (Khởi thủy, sơn dầu, 80 x 130 cm, tr. 12; Cái ôm, sơn dầu 80 x 120 cm, tr. 13), con người còn sáng tạo ra nghệ thuật, mà âm nhạc là trước hết như lời Verlaine (Thần khúc khởi sinh, sơn dầu, 110 x 110 cm, tr. 11; Tiếng sáo, tr. 10). Nhưng quan trọng hơn cả là mơ, mơ những giấc mơ ban ngày. Mộng lành (sơn dầu, 80 x 130 cm, tr. 35), Miên du (sơn dầu, 130 x 80 cm, tr. 44), là giấc mơ của giấc mơ. Giấc mơ thứ nhất và giấc mơ thứ hai được khu biệt bằng màu sắc. Hội họa Lê Minh Phong, đại để, rất chú trọng màu sắc. Bởi, như các họa sĩ Dã thú, Phong không chọn màu sắc để trang trí mà để biểu đạt tư tưởng, cả ở thời kỳ đỏ đen của nghệ thuật biểu hiện lẫn thời kỳ hiện nay của nghệ thuật biểu tượng. Nếu Van Gogh sử dụng cao trào màu sắc để thể hiện bản thân còn Gauguin để phục vụ cho câu chuyện, thì Lê Minh Phong dùng cho cả hai mục đích trên. Ở giấc mơ hướng về thế giới bên ngoài, họa sĩ sử dụng màu nguyên, rất nhiều màu đỏ ở trang phục, tóc, mặt. Thủ pháp đắp màu (impasto) và vẽ bóng làm cho tranh có không gian ba chiều, con người đứng im mà không bất động. Giấc mơ được thực tại hóa. Trong khi đó, giấc mơ hướng vào thế giới bên trong được thể hiện bằng màu nhạt, có tính huyền ảo, màu của hương khói đang tan loãng vào hư không. Đổi lại nền tranh màu đỏ tươi nhằm làm nổi bật những hình tượng trong tranh hai chiều, phẳng dẹt.
Khu biệt thứ hai là thế ứng xử với chim, bạn đồng hành của người đi. Ở giấc mơ thứ nhất là những con chim cụp cánh, bị buộc vào cành cây (Tâm thức bí ẩn), bị kẹp giữa hai thân cây (Di trú), bị cành cây xuyên thủng, hoặc bị bàn tay người bóp chết (Bạn đồng hành), bị cùm kẹp (Cha tôi), chim vận tải người (Giấc mơ)… Những con chim như vậy thì không thể bay được. Đó là những giấc mơ dang dở, thậm chí là ác mộng. Nhưng là con người thì không thể không mơ, nên tự ngã liền cấp cho nó một giấc mơ khác. Ở giấc mơ thứ hai này chim phần lớn là xòe cánh (Giấc mơ của mẹ, sơn dầu, 80 x 130 cm, tr. 14; Người đồng hành, sơn dầu, 140 x 120 cm, tr. 43…), hoặc được con người nâng niu trên tay (Sương bạc, sơn dầu, 80 x 150 cm, tr. 15; Tôi và chúng ta, sơn dầu, 140 x 80 cm, tr. 40), đậu trên đầu (Đôi bạn, tr. 38; Quý bà, sơn dầu, 80 x 130 cm, tr. 39; Giáo đường, sơn dầu, 150 x 80 cm, tr. 42) hoặc bay đồng hành (Hai chị em…). Ở những giấc Mộng lành này người với chim rất giống nhau. Một người và một chim tương tự, do áo người và lông chim cùng một màu. Người và chim tuy hai mà một. Đây chính là giấc mơ hợp nhất của con người vào thiên nhiên, vào vũ trụ, để được hưởng một tự do vĩnh cửu.
Khu biệt cuối cùng là những nhân vật mộng du, miên hành này đều là những phụ nữ mảnh mai, mỏng manh gợi nhắc đến các mỹ nhân của Hồng lâu mộng hay những nàng geisha Nhật Bản. Thật khác xa với thân hình ít nhiều cục mịch của những người đàn bà đất đỏ ở giấc mơ một. Khoảng cách ở họ làm tôi nhớ đến một đằng là những đàn bà miền núi thô tháp Hương Khê và những thiếu nữ áo tím mờ ảo, quý phái nơi Cố đô Huế. Đây cũng chính là khoảng cách ở ngoài đời và trong tâm hồn Lê Minh Phong. Trong anh cũng như ở mọi người, đều có hai nhân cách. Bản ngã/cái tôi là nhân cách 1, con người xã hội, thậm chí mặt nạ xã hội; tự ngã/ cái mình là nhân cách 2. Hai nhân cách này hiếm khi hòa thuận với nhau. Nhưng chính sự xung đột mới làm cho con người lớn lên, thức nhận được chính bản thân mình, nhất là với các nghệ sĩ. Hai dòng điện bình thường đi song hành với nhau để đến khi bắt gặp sẽ gây ra sự đoản mạch bùng nổ tia lửa sáng tạo.
*
Lê Minh Phong cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ, không bao giờ mất đi dù sau này có hiện đại đến đâu. Đó là căn cốt riêng, độc đáo của một thổ nhưỡng nghệ thuật. Là ngọn Lửa thiêng (tên tập thơ toàn bích của Thơ Mới) của thơ Huy Cận trong thời buổi chủ nghĩa cá nhân phát triển. Là những ám ảnh nguyên thủy, ám ảnh huyền thoại trong hội họa Lê Minh Phong, đặc biệt trong Thiên di. Điều này bộc lộ đặc biệt rõ mỗi khi Phong trở về Trong rừng sâu (sơn dầu, 80 x 120 cm, tr. 52). Dưới màu xanh đậm của rừng và của bầu trời đêm độc một vì sao mờ tỏ xuất hiện hai con người: một thiếu nữ đài các đang vươn tay về một thiếu nữ khác mặt người mình thú. Có thể coi đây như sự kết luận về hành trình bên trong của Lê Minh Phong - họa sĩ. Trong cuộc đi ấy hai nhân cách, một cổ sơ một hiện đại, luôn song hành. Nhưng tự ngã, một hành khách vĩnh cửu, bí ẩn bao giờ cũng là ga đi và ga đến của bản ngã, một vị khách chỉ đi đường một vài chặng. Cuộc lữ là bức tranh bìa mở đầu Thiên di cũng là bức tranh cuối khép lại Thiên di, có điều lần này hướng đi ngược lại, hoặc ngược về. Sự xoay vòng này làm cho cuộc đi thành miên viễn. Định mệnh con người, định mệnh nghệ sĩ.
Cuối cùng, tôi muốn lấy bức tranh Ánh nhìn (sơn dầu, 80 x 100 cm, tr. 53) làm kết cho sự thông diễn những cuộc Thiên di của Lê Minh Phong. Một thân cây ở tiền cảnh chia bức tranh làm đôi. Bên phải từ mảng thân cây vỡ mọc lên những cành non. Bên trái là một người núp nửa mình sau thân cây với một cái nhìn hết sức ám ảnh. Đó là ánh mắt của Thượng Đế Biết Tuốt đang giễu cợt mọi diễn giải, nhất là diễn giải của tôi vốn nhiều chủ quan của chủ thể viết. Thông diễn ấy có thể khác với chủ ý của Phong và ý kiến của nhiều người khác. Nhưng hẳn nó góp phần nới rộng đường biên của một không gian thẩm mỹ của hội họa Lê Minh Phong mà tôi gọi bằng một thuật ngữ khá mơ hồ, nhưng lại chính xác với Phong: nghệ-thuật-biểu-tượng. Bởi, nghệ thuật không phải để trả lời mà để đề ra những câu hỏi khác, những Thiên di khác.
Chùa Thầy, đầu năm Rồng, 2024
Đ.L.T
(TCSH55SDB/12-2024)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.