Lá cờ và nước mắt của mẹ*
Nơi bến sông quê
nước êm ả trôi như tờ giấy thẫm xanh ghi thư cho bạn
đêm tối không thấy mặt
anh thấy lọn tóc xõa tung từng đợt nóng hổi
chiếc gùi đỏ lửa trên lưng
Tổ quốc là đây
mẹ ngóng con bao ngày
chiếc phao thủng anh không thể bơi sang bên kia được nữa
ngôi sao cũng lịm dần hy vọng
anh có thể mất nhưng niềm tin yêu đang chờ
mệnh lệnh từ trái tim không - được - chết
lá cờ sẽ bay cánh chim tự do
đồng đội gọi tên anh
dòng Hương gọi tên anh
cuốn nhật ký vứt lại gọi tên anh
em gái gọi tên anh
sống bỏ cuộc đồng nghĩa sống mà đã chết bạn bè ơi
tảng đá biết bơi chuyện lạ giữa đời
hai sáu tháng ba
mặt trời từ rừng xanh bay trên đỉnh Ngọ Môn kinh thành Huế
trong giọt nước có triệu triệu giọt nước dòng sông
ấy là nước mắt mỏi mòn bao năm của mẹ
thấm ướt vai con ngày trở về.
----------------------
* Đêm 25/4/1975 trung đoàn Phú Xuân được lệnh mang lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng về cắm trên Kinh thành Huế. Tiểu đội trưởng đơn vị của Lê Huy Tập hỏi ai có thể mang được gói rất nặng này vượt sông. Chiến sĩ Lê Huy Tập nói ngay tôi xin mang. Không may, chiếc phao đồng đội giao cho anh bị thủng, chìm dần. Trong giây phút đó anh đã dũng cảm vật lộn giữa sống và chết để bơi qua sông. Gói nặng ấy chính là lá cờ được cắm trên đỉnh Ngọ Môn mà ai cũng biết trong dịp giải phóng Huế. (Tôi viết theo lời kể của ông Đào Văn Sử in trên “Sự Kiện - Nhân chứng” báo của Hội Cựu Chiến Binh Thành phố Hồ Chí Minh, ra tháng 2/2021).
(TCSH434/04-2025)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang
Hải Trung - Văn Cầm Hải - Ngô Tự Lập - Nguyễn Tấn On - Phan Trung Thành - Trần Thị Thu Huề
Lê Ngọc Thuận - Từ Dạ Thảo - Đặng Hùng Thường - Tuệ Lam - Hoàng Thị Thiều Anh - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Hoa - Nguyễn Thị Tân Hoa - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Thụy Kha
Hữu Thỉnh - Lưu Ly - Đặng Nguyệt Anh - Sơn Thu - Trịnh Thanh Sơn - Nguyễn Xuân Sang - Văn Công Toàn - Nguyễn Ngọc Hưng - Nguyễn Thị Ngọc Hà - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Mẫn Cán - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Xuân Tùng - Lê Thị Mây - Lê Viết Xuân - Ngô Minh - Quang Huy - Thái Doãn Long - Hà Minh Đức - Sơn Đức - Tôn Nữ Thu Thuỷ - Lê Khánh Mai - Bùi Minh Quốc - Ngô Đức Tiến - Trương Quân - Trương Nam Hương - Đoàn Mạnh Phương - Nguyễn Sĩ Cứ - Thuý Nga - Lê Huy Quang - Hồ Thế Hà - Phạm Đình Ân - Trần Tâm - Hoàng Xuân Thảo
Thục Linh - Ngân Vịnh - Nguyễn Ngọc Phú - Hoàng Bình Trọng - Tôn Phong
Sâu tưởngtrong sâu tưởng...ta có phải là mìnhhay tái bản cuộc đời nào đómà bằng lặng một đêm chưa thểphiên bản bốn mùa trong gió cơ man...
Thong thả cho quả chín câyCho mây ngũ sắc về đây hội mùa…
...Ngoài kia mưaThầm thĩ hát trên cây lan hồ điệpLoài hoa nở hai bông một lầnTôi khóc...
Nguyễn Thị Kim Ngân - Trịnh Hoài Giang - Dư Thị Hoàn - Lê Thị Mây - Huỳnh Quang Nam - Trần Thị Bích Liên - Phan Văn Khuyến
Nguyễn Đăng Việt - Nguyễn Xớn - Nguyễn Thị Ngọc Hà - Đinh Thị Thu Vân - Nguyễn Thị Phước - Hồ Thế Phất - Nguyễn Lãm Thắng - Nguyễn Tấn On - Thái Doãn Long - Nguyễn Thiền Nghi - Lê Hưng Tiến - Lê Ngã Lễ - Đinh Hạ - Nguyễn Quân - Phạm Doãn Thị Mãi - Phạm Vân Hiền - Đào Duy Anh
HOÀNG VŨ THUẬTTrên các bậc thang thơ hiện đại, ta gặp nhiều gương mặt trẻ, có người đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng cũng không ít nhà thơ thuộc thế hệ trước và sau năm 1975. điều ấy chứng minh đổi mới thơ ca không dành riêng cho thế hệ nào cả. Những gì đang diễn ra sôi động trong nhịp điệu thời kinh tế tri thức đòi hỏi nhà thơ chuyển đổi thi pháp sáng tạo. Thơ không thể đứng yên thông thả, nhâm nhi mặc cho cuộc sống cuồn cuộn như cơn lốc.