Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021): Từ người thầy giáo đến vị tướng vĩ đại

09:00 23/08/2021

Năm 1990, trả lời phỏng vấn nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow, phóng viên tờ New York Times, tác giả cuốn sách “Vietnam: A history”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Nếu không trở thành người lính, có lẽ tôi vẫn là một thầy giáo, có thể dạy môn Triết học hoặc Lịch sử”…

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp 95 tuổi cùng các học sinh Hà Nội tại vườn nhà.

Khơi dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà Nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà Nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Còn nhỏ, ông đã sớm thấm nhuần lòng yêu nước và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng.

Sau nhiều thăng trầm, ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut. Ông nhận bằng cử nhân Luật năm 1937 (Licence en Droit). Tháng 9/1935, khóa học đầu tiên của trường tư thục Thăng Long khai giảng, thầy Võ Nguyên Giáp dạy các môn Pháp văn, Lịch sử, Địa lý từ lớp đệ nhất niên cho đến đệ tứ niên. Ở bậc tú tài, thầy Võ Nguyên Giáp dạy môn Lịch sử. Mỗi giờ đứng lớp của thầy giáo Võ Nguyên Giáp đều có sức truyền cảm rất lớn, đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi học trò. Và những năm 1936-1939, nghề chính của thầy Võ Nguyên Giáp là dạy học ở trường Thăng Long, nhưng vẫn tự học trường Luật và làm báo.

Trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại buổi dạy học cuối cùng của mình ở Trường tư thục Thăng Long trước khi ra nước ngoài hoạt động bí mật theo quyết định của Đảng, tháng 5/1940. Theo đó, tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thủ tiêu nốt chút quyền tự do, dân chủ mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thời kỳ Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm quyền. Các tổ chức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng lúc đó đều phải rút vào hoạt động bí mật. Tháng 4/1940, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng nhắn đồng chí Võ Nguyên Giáp lên Chèm nhận nhiệm vụ mới. Tại đây, đồng chí Hoàng Văn Thụ cho biết, theo quyết định của Trung ương Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sẽ vượt biên giới sang hoạt động tại Trung Quốc.

Trong những ngày tháng chuẩn bị đó, thầy giáo Võ Nguyên Giáp tranh thủ vào thư viện nhà trường mượn “Bách khoa toàn thư” để đọc thêm phần về vũ khí, nhất là những vũ khí cho chiến tranh du kích như súng trường, lựu đạn. Đồng thời, thầy nghiên cứu kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống lại nhà Minh, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Tây Ban Nha chống lại cuộc xâm lược của Napoleon.

Trong những năm tháng dạy ở Trường tư thục Thăng Long, thầy giáo Võ Nguyên Giáp được học trò rất yêu quý. Theo hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thầy giáo Võ Nguyên Giáp khi đó đã khéo léo khơi gợi, đưa tinh thần yêu nước vào học trò: “Tôi dạy Lịch sử, tôi tập trung vào những sự kiện tiêu biểu như phong trào Cần Vương hay những tấm gương đầy khí phách như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu… Ngoài những giờ dạy trên lớp, tôi còn tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, đến Cửa Bắc, đứng trước quả đạn pháo của tàu chiến Pháp bắn vào thành, đến Ô Cầu Giấy, chỗ Henri Riviere, Francis Garnier tử trận. Ngay tại hiện trường, tôi đã giảng giải cho các trò diễn biến của trận đánh và gieo vào lòng các em lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm cứu nước”.

Theo họa sỹ Phan Kế An: “Thầy Giáp luôn dùng những câu chuyện cách mạng để đưa tinh thần cách mạng đó vào Việt Nam. Cách dạy đó vừa hấp dẫn vừa khiến học sinh sôi nổi, quan trọng hơn nó đã khơi dậy được tinh thần yêu nước của tuổi trẻ”. Nhiều học trò của thầy Giáp đã tìm đến chủ nghĩa cộng sản và được kết nạp Đảng. Vì vậy, có đôi ba học trò biết thầy giáo Võ Nguyên Giáp sắp đi làm nhiệm vụ Đảng giao.

Và cuộc chia ly cuối cùng

Một buổi chiều thứ sáu đầu tháng 5/1940, thầy giáo Võ Nguyên Giáp rời khỏi ngôi nhà nhỏ có người vợ, người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái và cô con gái nhỏ chưa đầy tuổi Võ Hồng Anh để đến trường. Ra khỏi nhà một quãng, ông ngoái lại nhìn ngôi nhà, nhìn thật lâu vì biết chuyến đi ra nước ngoài lần này chưa biết bao giờ mới trở về.

Theo lịch dạy của nhà trường, lẽ ra hôm sau (thứ bảy), thầy Võ Nguyên Giáp vẫn có tiết giảng nhưng ông đã sắp xếp dạy dồn cả chương trình ngày thứ 7 vào thứ 5 và thứ 6 để có một khoảng cách hai ngày (thứ Bảy và Chủ Nhật) không phải đến trường. Ông đã biên sẵn một lá thư gửi giám đốc nhà trường, nói là về quê Quảng Bình rồi bị mệt nên chưa ra Hà Nội được. Thư này, gia đình ông sẽ gửi từ Quảng Bình ra, sau khi thầy giáo Võ Nguyên Giáp đã đi khỏi Hà Nội.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp dạy học tại trường Tư thục Thăng Long, Ngõ Trạm, Hà Nội.


Năm giờ chiều, buổi dạy cuối cùng kết thúc, thầy giáo Võ Nguyên Giáp lững thững đi về phía Hồ Tây như một người dạo mát. Hoa phượng nở đỏ trên vòm cây. Tiếng ve sầu kêu râm ran. Ông vừa đi vừa để ý xem có bị mật thám Pháp theo dõi không. May sao, chiều hôm đó không thấy bóng dáng bọn chúng. Người vợ trẻ Nguyễn Thị Quang Thái ẵm cô con gái nhỏ Hồng Anh đứng đợi để chia tay chồng ở một gốc cây ven đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên hiện nay). Quang Thái rơm rớm nước mắt, thi thoảng lại phải nhìn ra phía hồ kẻo người qua đường để ý.

Thời khắc bịn rịn ấy, ông dặn người vợ trẻ đợi con cứng cáp rồi gửi nhờ ông bà nuôi dưỡng để đi hoạt động bí mật... Thế rồi, đồng chí giao thông viên của Đảng xuất hiện, dùng xe tay chở ông đến điểm hẹn ở một con hẻm cuối đường Yên Phụ. Sáng hôm sau, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ra ga Đầu Cầu, bắt xe lửa đi Lào Cai để từ đó sang Trung Quốc…

Cuộc chia tay đó cũng là lần cuối cùng Đại tướng được gặp người vợ, người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái. Sau khi chồng sang Trung Quốc một thời gian, đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái cũng gửi con về quê nội Quảng Bình rồi đi hoạt động bí mật. Năm 1942, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và giam giữ tại nhà tù Hỏa Lò. Bệnh tật, đau yếu trong nhà tù khắc nghiệt, đồng chí đã hy sinh ngay tại Hỏa Lò đầu năm 1944.

“Thầy dạy cho chúng tôi cái đạo làm người”

Ông Trần Văn Lan, học sinh khóa 1934-1938, năm 2002 đã viết bài đăng báo kể về thầy cũ: “Thầy tôi hiền lắm, không bao giờ mắng gắt học sinh… Sau này, mỗi lần được nghe nhắc đến tên thầy tôi trên báo, trên đài là tôi nghĩ ngay đến hình ảnh một trí thức có cặp mắt rất sáng, nước da trắng hồng, dáng đi khoan thai, nghiêm khắc mà bao dung, đức độ. Thầy đã dạy tôi những bài học về lòng tự hào dân tộc, về lòng yêu nước thông qua bộ môn Lịch sử. Nhưng cái quý nhất, đẹp nhất là thầy đã dạy cho tôi cái đạo làm người, phải hết lòng thương yêu học sinh, phải có cái tâm, cái đức của nghề “trồng người”.

Khi Đại tướng còn khỏe, khai giảng, hay những dịp lễ quan trọng của trường Tiểu học Thăng Long (Hà Nội), không lần nào vắng mặt thầy. Họ gọi vị Đại tướng kính yêu của dân tộc là Thầy Giáp, xưng em một cách gần gũi bởi sự ấm áp luôn toát ra từ chính tâm hồn người lính giáo viên nhân dân. Bà Bùi Thị Liên, Nguyên giáo viên trường Tiểu học Thăng Long (1977- 1995) nói: “Chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh. Thầy đã ân cần chỉ bảo là phải dạy học sinh như thế nào. Dạy kiến thức, nhưng phải dạy làm người. Thầy bảo phải làm sao để học sinh yêu môn Lịch sử, yêu những trang sử nước nhà”.

Ngoài lời nhắn nhủ với ngành giáo dục chú trọng dạy học sinh “làm người”, Đại tướng còn nhấn mạnh tới giáo dục thể chất, thẩm mỹ cho học sinh. Đơn cử, giáo dục thẩm mỹ để các học sinh hiểu và biết yêu chân lý, trọng lẽ phải, biết đánh giá và cảm thụ đúng đắn cái đẹp của con người, thiên nhiên và truyền thống dân tộc, từ đó thể hiện trách nhiệm và biết quý trọng những giá trị văn hóa, truyền thống và đạo đức của cá nhân, gia đình và xã hội.

“Dân ta phải biết sử ta”, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Minh đã cùng với toàn quân, toàn dân viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Theo cố Giáo sư sử học Phan Huy Lê, trong con người vị thống lĩnh quân sự, nét độc đáo chưa từng thấy ở bất cứ một nhà quân sự thế giới nào, đó là trước khi là nhà quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà sử học, một giáo viên dạy Sử và một Đại tướng vừa làm ra sử, vừa viết lại lịch sử. “Trong hồi ký của Đại tướng, là những công trình có giá trị lịch sử: Thứ nhất là chiến đấu trong vòng vây, Đường đến Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử và Tổng hành dinh đại thắng mùa xuân. Đây là hồi ký của một Tổng chỉ huy, cho nên ông vừa kể toàn bộ câu chuyện cực kỳ sinh động mang tính chất hồi ký nhưng bao quát toàn bộ lịch sử của dân tộc”.

 

 

 

 

Theo Pháp luật Việt Nam

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ít người biết tượng “ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu bên bờ sông Hương (Huế) lại có liên quan đến nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.

  • Chiều ngày 19/10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu hai cuốn sách “Em còn gì sau chiến tranh”  và “Biến cố 182010” của nhà văn Hà Khánh Linh.

  • Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.

  • Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.

  • Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính  - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. 

  • Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.

  • Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.

  • Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
    Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.

  • Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế. 

  • Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).

  • Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.

  • Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học

  • Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...

  • Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.

  • Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.

  • Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.

  • Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...

  • Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.

  • Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.

  • Nét khác biệt của lăng Hoàng Cô gắn liền với câu chuyện cảm động về cuộc đời tiết hạnh của Công chúa Long Thành - người chị ruột của vua Gia Long.