Năm 1990, trả lời phỏng vấn nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow, phóng viên tờ New York Times, tác giả cuốn sách “Vietnam: A history”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Nếu không trở thành người lính, có lẽ tôi vẫn là một thầy giáo, có thể dạy môn Triết học hoặc Lịch sử”…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp 95 tuổi cùng các học sinh Hà Nội tại vườn nhà.
Khơi dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà Nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà Nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Còn nhỏ, ông đã sớm thấm nhuần lòng yêu nước và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng.
Sau nhiều thăng trầm, ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut. Ông nhận bằng cử nhân Luật năm 1937 (Licence en Droit). Tháng 9/1935, khóa học đầu tiên của trường tư thục Thăng Long khai giảng, thầy Võ Nguyên Giáp dạy các môn Pháp văn, Lịch sử, Địa lý từ lớp đệ nhất niên cho đến đệ tứ niên. Ở bậc tú tài, thầy Võ Nguyên Giáp dạy môn Lịch sử. Mỗi giờ đứng lớp của thầy giáo Võ Nguyên Giáp đều có sức truyền cảm rất lớn, đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi học trò. Và những năm 1936-1939, nghề chính của thầy Võ Nguyên Giáp là dạy học ở trường Thăng Long, nhưng vẫn tự học trường Luật và làm báo.
Trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại buổi dạy học cuối cùng của mình ở Trường tư thục Thăng Long trước khi ra nước ngoài hoạt động bí mật theo quyết định của Đảng, tháng 5/1940. Theo đó, tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thủ tiêu nốt chút quyền tự do, dân chủ mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thời kỳ Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm quyền. Các tổ chức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng lúc đó đều phải rút vào hoạt động bí mật. Tháng 4/1940, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng nhắn đồng chí Võ Nguyên Giáp lên Chèm nhận nhiệm vụ mới. Tại đây, đồng chí Hoàng Văn Thụ cho biết, theo quyết định của Trung ương Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sẽ vượt biên giới sang hoạt động tại Trung Quốc.
Trong những ngày tháng chuẩn bị đó, thầy giáo Võ Nguyên Giáp tranh thủ vào thư viện nhà trường mượn “Bách khoa toàn thư” để đọc thêm phần về vũ khí, nhất là những vũ khí cho chiến tranh du kích như súng trường, lựu đạn. Đồng thời, thầy nghiên cứu kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống lại nhà Minh, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Tây Ban Nha chống lại cuộc xâm lược của Napoleon.
Trong những năm tháng dạy ở Trường tư thục Thăng Long, thầy giáo Võ Nguyên Giáp được học trò rất yêu quý. Theo hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thầy giáo Võ Nguyên Giáp khi đó đã khéo léo khơi gợi, đưa tinh thần yêu nước vào học trò: “Tôi dạy Lịch sử, tôi tập trung vào những sự kiện tiêu biểu như phong trào Cần Vương hay những tấm gương đầy khí phách như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu… Ngoài những giờ dạy trên lớp, tôi còn tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, đến Cửa Bắc, đứng trước quả đạn pháo của tàu chiến Pháp bắn vào thành, đến Ô Cầu Giấy, chỗ Henri Riviere, Francis Garnier tử trận. Ngay tại hiện trường, tôi đã giảng giải cho các trò diễn biến của trận đánh và gieo vào lòng các em lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm cứu nước”.
Theo họa sỹ Phan Kế An: “Thầy Giáp luôn dùng những câu chuyện cách mạng để đưa tinh thần cách mạng đó vào Việt Nam. Cách dạy đó vừa hấp dẫn vừa khiến học sinh sôi nổi, quan trọng hơn nó đã khơi dậy được tinh thần yêu nước của tuổi trẻ”. Nhiều học trò của thầy Giáp đã tìm đến chủ nghĩa cộng sản và được kết nạp Đảng. Vì vậy, có đôi ba học trò biết thầy giáo Võ Nguyên Giáp sắp đi làm nhiệm vụ Đảng giao.
Và cuộc chia ly cuối cùng
Một buổi chiều thứ sáu đầu tháng 5/1940, thầy giáo Võ Nguyên Giáp rời khỏi ngôi nhà nhỏ có người vợ, người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái và cô con gái nhỏ chưa đầy tuổi Võ Hồng Anh để đến trường. Ra khỏi nhà một quãng, ông ngoái lại nhìn ngôi nhà, nhìn thật lâu vì biết chuyến đi ra nước ngoài lần này chưa biết bao giờ mới trở về.
Theo lịch dạy của nhà trường, lẽ ra hôm sau (thứ bảy), thầy Võ Nguyên Giáp vẫn có tiết giảng nhưng ông đã sắp xếp dạy dồn cả chương trình ngày thứ 7 vào thứ 5 và thứ 6 để có một khoảng cách hai ngày (thứ Bảy và Chủ Nhật) không phải đến trường. Ông đã biên sẵn một lá thư gửi giám đốc nhà trường, nói là về quê Quảng Bình rồi bị mệt nên chưa ra Hà Nội được. Thư này, gia đình ông sẽ gửi từ Quảng Bình ra, sau khi thầy giáo Võ Nguyên Giáp đã đi khỏi Hà Nội.
![]() |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp dạy học tại trường Tư thục Thăng Long, Ngõ Trạm, Hà Nội. |
Năm giờ chiều, buổi dạy cuối cùng kết thúc, thầy giáo Võ Nguyên Giáp lững thững đi về phía Hồ Tây như một người dạo mát. Hoa phượng nở đỏ trên vòm cây. Tiếng ve sầu kêu râm ran. Ông vừa đi vừa để ý xem có bị mật thám Pháp theo dõi không. May sao, chiều hôm đó không thấy bóng dáng bọn chúng. Người vợ trẻ Nguyễn Thị Quang Thái ẵm cô con gái nhỏ Hồng Anh đứng đợi để chia tay chồng ở một gốc cây ven đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên hiện nay). Quang Thái rơm rớm nước mắt, thi thoảng lại phải nhìn ra phía hồ kẻo người qua đường để ý.
Thời khắc bịn rịn ấy, ông dặn người vợ trẻ đợi con cứng cáp rồi gửi nhờ ông bà nuôi dưỡng để đi hoạt động bí mật... Thế rồi, đồng chí giao thông viên của Đảng xuất hiện, dùng xe tay chở ông đến điểm hẹn ở một con hẻm cuối đường Yên Phụ. Sáng hôm sau, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ra ga Đầu Cầu, bắt xe lửa đi Lào Cai để từ đó sang Trung Quốc…
Cuộc chia tay đó cũng là lần cuối cùng Đại tướng được gặp người vợ, người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái. Sau khi chồng sang Trung Quốc một thời gian, đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái cũng gửi con về quê nội Quảng Bình rồi đi hoạt động bí mật. Năm 1942, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và giam giữ tại nhà tù Hỏa Lò. Bệnh tật, đau yếu trong nhà tù khắc nghiệt, đồng chí đã hy sinh ngay tại Hỏa Lò đầu năm 1944.
“Thầy dạy cho chúng tôi cái đạo làm người”
Ông Trần Văn Lan, học sinh khóa 1934-1938, năm 2002 đã viết bài đăng báo kể về thầy cũ: “Thầy tôi hiền lắm, không bao giờ mắng gắt học sinh… Sau này, mỗi lần được nghe nhắc đến tên thầy tôi trên báo, trên đài là tôi nghĩ ngay đến hình ảnh một trí thức có cặp mắt rất sáng, nước da trắng hồng, dáng đi khoan thai, nghiêm khắc mà bao dung, đức độ. Thầy đã dạy tôi những bài học về lòng tự hào dân tộc, về lòng yêu nước thông qua bộ môn Lịch sử. Nhưng cái quý nhất, đẹp nhất là thầy đã dạy cho tôi cái đạo làm người, phải hết lòng thương yêu học sinh, phải có cái tâm, cái đức của nghề “trồng người”.
Khi Đại tướng còn khỏe, khai giảng, hay những dịp lễ quan trọng của trường Tiểu học Thăng Long (Hà Nội), không lần nào vắng mặt thầy. Họ gọi vị Đại tướng kính yêu của dân tộc là Thầy Giáp, xưng em một cách gần gũi bởi sự ấm áp luôn toát ra từ chính tâm hồn người lính giáo viên nhân dân. Bà Bùi Thị Liên, Nguyên giáo viên trường Tiểu học Thăng Long (1977- 1995) nói: “Chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh. Thầy đã ân cần chỉ bảo là phải dạy học sinh như thế nào. Dạy kiến thức, nhưng phải dạy làm người. Thầy bảo phải làm sao để học sinh yêu môn Lịch sử, yêu những trang sử nước nhà”.
Ngoài lời nhắn nhủ với ngành giáo dục chú trọng dạy học sinh “làm người”, Đại tướng còn nhấn mạnh tới giáo dục thể chất, thẩm mỹ cho học sinh. Đơn cử, giáo dục thẩm mỹ để các học sinh hiểu và biết yêu chân lý, trọng lẽ phải, biết đánh giá và cảm thụ đúng đắn cái đẹp của con người, thiên nhiên và truyền thống dân tộc, từ đó thể hiện trách nhiệm và biết quý trọng những giá trị văn hóa, truyền thống và đạo đức của cá nhân, gia đình và xã hội.
“Dân ta phải biết sử ta”, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Minh đã cùng với toàn quân, toàn dân viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Theo cố Giáo sư sử học Phan Huy Lê, trong con người vị thống lĩnh quân sự, nét độc đáo chưa từng thấy ở bất cứ một nhà quân sự thế giới nào, đó là trước khi là nhà quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà sử học, một giáo viên dạy Sử và một Đại tướng vừa làm ra sử, vừa viết lại lịch sử. “Trong hồi ký của Đại tướng, là những công trình có giá trị lịch sử: Thứ nhất là chiến đấu trong vòng vây, Đường đến Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử và Tổng hành dinh đại thắng mùa xuân. Đây là hồi ký của một Tổng chỉ huy, cho nên ông vừa kể toàn bộ câu chuyện cực kỳ sinh động mang tính chất hồi ký nhưng bao quát toàn bộ lịch sử của dân tộc”.
Theo Pháp luật Việt Nam
Triều đại phong kiến vua Nguyễn cuối cùng tại Huế đã trải qua với bao biến cố lịch sử. Hàng vạn cổ vật quý hiếm đi cùng triều đại này hiện đã mất mát quá nhiều, không còn “ở lại” được trên mảnh đất nó đã từng tồn tại.
Hai đồng tiền cổ quý hiếm là loại tiền dùng để ban thưởng chứ không dùng để trao đổi, mua bán có tên là “Gia Long thông bảo” và “Minh Mạng thông bảo” với kích thước rất lớn vừa được một người dân ở Quảng Bình lần đầu phát hiện.
Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới.
Huế từ lâu đã là một trung tâm văn hóa, du lịch của cả nước. Festival văn hóa nghệ thuật kết hợp với du lịch đã tạo cú hích cho thế mạnh đặc thù của quần thể di tích cố đô Huế - được công nhận là di sản thế giới vào năm 1993, từ đó tạo diện mạo cho Huế có sự phát triển mới, mạnh mẽ hơn.
Lọng là sản phẩm độc đáo được dùng để tôn vinh sự trang trọng, quý phái trong các nghi lễ của triều đình xưa, cũng như trong các lễ nghi cúng tế mang đậm tín ngưỡng dân gian. Từ đám rước thần linh, đám tang, lễ cưới, hỏi… đều có sự hiện diện của chiếc lọng.
Trong kiến trúc xưa, có lẽ không nơi nào có nhiều bức bình phong như ở Huế. Khắp các cung đình, phủ đệ, đến các đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ và nhà thường dân…đều hiện hữu những bức bình phong.
Võ tướng Nguyễn Tri Phương đã dành cả đời ông trong công cuộc giữ yên bờ cõi và chống ngoại xâm trải qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Khi Hà thành thất thủ vào tay quân Pháp, ông đã nhịn đói cho đến chết.
Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được.
Vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và qua đời năm 1820, thọ 57 tuổi. Trong tập Ngự dược nhật ký của châu bản triều Nguyễn, cho thấy những năm cuối đời nhà vua đã mắc bệnh nan y và các ngự y đã phải vất vả để điều trị.
“Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm..."
Khi nói Huế rặt, tôi muốn kể chuyện chỉ có Huế mới có, không lẫn vào đâu được ...
Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm vừa qua đời lúc 8g15 ngày 2-11 (nhằm ngày 21 tháng 9 Ất Mùi), hưởng thọ 84 tuổi.
Đang những ngày mưa ở Huế tháng 10 này, lại nhắc đến mưa Huế, liệu đây có phải là đặc sản của Huế của mùa thu Huế, nhưng Huế làm gì có mùa thu? Hay là mùa thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp nhận ra...?
Chiều 30-10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên - Huế phối hợp Hội Khoa học Lịch sử tỉnh và Công ty CP Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam (Vietravel) tổ chức Hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” diễn ra tại Hội trường UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Di tích Tam Tòa nằm ở góc đông nam bên trong Kinh thành cách bờ bắc sông Hương 300m về phía nam, qua cửa Thượng Tứ. Khu di tích Tam Toà toạ lạc tại số 23 đường Tống Duy Tân, phường Thuận Thành, thành phố Huế.
Từ năm 2012 đến nay, Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã tiếp cận và giải mã kho tư liệu châu bản triều Nguyễn đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Hà Nội).
Xứ Huế không chỉ có các công trình lăng tẩm cổ kính mà còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho sự hùng vĩ. Nổi bật trong đó là đầm Lập An với vẻ đẹp say đắm lòng người.
Để có thể lực cường tráng, chăn gối viên mãn, ngoài thuốc men tẩm bổ, Minh Mạng còn rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp mà ngày nay rất phổ biến.
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế) không chỉ là hệ thủy vực nước lợ lớn nhất Đông Nam Á mà nơi đây còn có những câu chuyện đầy kỳ bí được ghi chép hoặc truyền miệng từ xa xưa.
Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.