Ảnh: Internet
Nhân đọc bài thơ này, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ viết “Quy ẩn, về đâu?” để tặng ông như một nét “lễ” của cách ứng xử trong truyền thống văn hóa. Một nhà thơ đất Quảng khác, thuộc thế hệ kế sau, Nguyễn Đông Nhật viết tiếp “Quy khứ, về đây” thay lời ngỏ chân tình: Cuộc đời dẫu có nhiều cay đắng, ngậm ngùi, thì vẫn là nơi con người phải gánh trọn số phận để đi qua hết cuộc tồn sinh. Cả ba bài dù đều viết theo thể thơ cổ: hành độc vận nhưng mang một phong thái riêng. Cảm khái trước tình thơ của ba nhà thơ đất Quảng Nam vốn có rất nhiều gắn bó với Huế, Sông Hương xin được giới thiệu ba bài hành này như một món quà thơ nhằm nhắc lại một nét đẹp trong văn học truyền thống tiếp nối những âm hưởng tuyệt vời những bài hành bất hủ của Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Quang Dũng... SÔNG HƯƠNG TƯỜNG LINH Khúc ca quy ẩn Bạch diện qua rồi, vẫn trắng tay thư sinh buổi trước, gã cuồng nay lạc đường, quay ngựa, vương tình bút xa ruộng, lìa quê, nhớ luống cày đọc sách nửa đời chưa sáng ý bão bùng tơi tả cánh mơ bay nghìn câu nguyện ước tan theo mộng ráng đỏ mây phai nắng cuối ngày hiên vắng ta ngồi đêm nguyệt tận mắt buồn người hiện giữa cơn say Khúc thu người tiễn ta chiều cũ dương liễu đầu sông lá rụng đầy không chén trường đình mà lảo đảo không màng sự nghiệp cũng ngây ngây sông Thu nào phải là sông Dịch hai phía thầm đau nhạn lạc bầy ta đã hẹn người ngày tái kiến hội xuân đời ghép hội rồng mây người không còn nữa, ta phiêu bạt trở lại, còn ai gặp nữa đây? quê cũ, cổng làng ai đứng đợi? chiều xuân lạnh chiếu rượu xuân bày sông xưa lở cả đôi bờ đẹp hoang vắng, đò thôi cập bến này trời mênh mông quá, vô tình quá! không hận nhưng lòng tiếc lắm thay! vốn nặng cưu mang tình cố lý về nhìn hiên cúc gió thu lay ta ngâm khe khẽ bài tương biệt người trách thầm qua nét nhíu mày nhân ảnh mờ chìm trong đáy cốc rượu chiều sóng sánh bởi heo may ta chờ nghe tiếng thân thương cũ người gửi riêng ta thuở đọa đày chiều bỗng tuôn mưa, trời nổi sấm chén buồn còn lại chất men cay bóng người mãi mãi là hư ảnh mưa suốt đêm trường, gió lạnh vây rượu rót chờ người không hiện nữa bài thơ chiêu niệm ý hao gầy Cố nhân! ta gọi tên bằng hữu vạn nẻo trầm luân mất dấu giày ta ngó lên nguồn, trông xuống biển hỏi cùng nam bắc, hỏi đông tây… lặng im, xẻ nghé tan đàn hết! tiếp những mười năm hẹn đã chầy mồ bạn lạc loài bao cõi lạ nén hương chưa đốt tỏ lòng này tri âm tri kỷ như sao sớm chút nghĩa kim bằng cũng hiếm thay! Cuối cuộc viễn trình đơn độc quá! bơ phờ cánh hạc khép đường bay gẫm bao chí lớn trong thiên hạ chẳng được còn xanh với cỏ cây thì ta một chấm nhân sinh nhỏ mong mỏi gì hơn ở kiếp này? cũng chẳng tính chi còn với mất càng không than vãn chuyện riêng tây đàn xưa trỗi lại bài lưu thủy lắm nỗi niềm trao với nước mây khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy vang mãi dư âm triều hệ lụy thơ chào tuyệt tích gửi ai đây? Tân Tỵ - 2001 TẦN HOÀI DẠ VŨ Quy ẩn, về đâu? Kính tặng anh Tường Linh (nhân đọc “Khúc ca quy ẩn”) Chiều xuống bên trời, mưa nữa đây buồn như triều rộng sóng dâng đầy phương xa đã thấm mùi lưu lạc đã ngán chuyện mình mãi đổi thay chẳng tiếc hư danh, đành phận mỏng xoa tay mộng ngắn chẳng qua ngày chiều nao soi bóng trong vinh hiển để tối nay ngồi nhẫm đắng cay thôi thế màu đời trăm sắc ảo ngày về mây trắng trói hai tay Nhớ xưa ta đến đời như mới nuôi mộng sông hồ mắt đắm say phơi phới tim vui lòng nhịp bước buồn đau ngỡ đạp dưới chân giày ta đi không nhớ người thương nhớ không tiếc tình vương ở cuối mày không hẹn đâu màng câu lỗi hẹn cười khinh danh lợi thế gian này đâu hay đời cứ cho gian dối thế sự trêu người mưa bóng mây lối cũ quay về sương khói lạnh tuổi xuân che mặt khóc hao gầy thì ra ảo tưởng là ta đấy và cũng là ta kẻ trót vay giấc mộng sông hồ tan bọt nước cười mình trí cạn, chẳng cơ may “gẫm bao chí lớn trong thiên hạ chẳng được còn xanh với cỏ cây thì ta một chấm nhân sinh nhỏ mong mỏi gì hơn ở kiếp này?”(1) biết thế mà không đành dạ thế bụi đường trăm lớp giũ chưa bay Tìm em cửa nhỏ mong tương ngộ duyên muộn còn chăng một chút này mỏi gối gan hùm thay lốt thỏ gửi thân yếm thắm, óc chưa lầy đêm đêm đối bóng thầm tâm sự chẳng bắt trăng vàng trên gối say chẳng hẹn người về chung lối mộng chỉ mong dâu bể lấp mau đầy nào hay nhân ngãi không đành phận cuối cuộc tang thương để dấu giày trong máu pha cung đàn tiễn hận quạt mồ xanh nắm cỏ trên tay Ai dẫn chân ta về xóm trúc? am không xơ xác tấm thân gầy nghe câu thuyết pháp lòng như đất chẳng ngộ cho mình được mảy may quay bước, làng xưa tìm lối cũ mẹ cha già yếu bỏ bao ngày về nương bóng hạc quên đời bạc bất hiếu thôi đành con chắp tay quê cũ dòng xanh sông chảy lại? tuổi thơ khói bếp có sum vầy? ngàn năm mảnh đất đan trong kén lại hóa thành thơ cho bướm bay bạn cũ đã xa ngoài vạn lý tạ lòng ai hát bóng trăng lay? Ai về cố quận cam quy ẩn ta xót chi đời những lúc say manh áo ân tình đành bạc thếch sầu lòng mấy buổi chẳng ai hay đời thôi xin cứ bay như khói chẳng có ai về lau mắt cay dẫu trốn được ra ngoài hữu hạn hư vô cũng lạnh cuối chân mày! 2-12-2001 ------------- (1) Thơ Tường Linh - Khúc ca quy ẩn NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Quy khứ - về đây Kính tặng anh Tường Linh & anh Tần Hoài Dạ Vũ Thì vẫn muôn trùng vẫn gió lay Cay chua dâu bể bạc chân mày U minh chìm nổi triền miên giấc Trong trận cờ ma loạn dấu giày Ai hỏi ngàn câu trên biển lớn Can chi thân gởi chốn lưu đày Đời soi huyễn mộng gương như chém Chữ nghĩa tan theo nắng cuối ngày Trí bạc xem ra đành phận mốc Mờ mờ qua lối huyệt mù say. Ra đi. Âm vọng đầu sông sáng Khóc lịm hài nhi giập sóng lầy Ta bước lên đường như phải bước Từ vô lượng kiếp giạt về đây Nặng cùng chín chữ thầm trong máu Tát cạn sông đền chửa mảy may Tóc trắng bên trời cha mẹ yếu Mà lưu lạc rã cánh bèo mây Đành cam bất hiếu lòng pha giấm Hồn gởi điêu linh lệ thấm dày Ngút ngút quê nhà sương khói nghẹn Không về, ai đợi mỏn niềm tây Lửa bom đã lấp biền dâu sém Vườn cải hoa bầm lạnh dấu tay Lịch sử cười điên cơn mất trí Xé đời tươi máu có ai hay? “Ngàn năm mảnh đất đan trong kén”(1) Tàn nửa dòng thơ, lạc bướm bay. Ra đi. Mơ dựng lời vui mới Cho ngát mùa lên xanh sắc cây Cho bếp nhân quần reo lửa ấm Hát cùng giấc mộng khúc ca say Đâu hay máu chảy ra ngoài máu Dìm nát tim yêu cuộc thế bày Ước nguyện phai màu tan ảo ảnh Trách lòng chưa tỏ cuộc cờ ngây Nghìn xưa rồi những nghìn sau nữa Danh lợi cuồng tâm trái đất quay Gió hú đêm trường trăng lạnh khóc Ai đem xương trắng dựng lầu mây? Ai cười xé lụa hờn sông núi? Ai hỡi? Lầm chôn kiếp đọa đày! Giận trời, mây cứ điềm nhiên trắng Tiếng chó tru ma rợn óc lầy Được mất còn chi ngoài rách nát Thôi đành che mắt ướt trong tay Đời ơi? “… một chấm nhân sinh nhỏ Mong mỏi gì hơn ở kiếp này ”(2) Biết thế nên vui cùng nước mắt Ơn người mong trả giữa niềm cay Thời gian. Xin giữ đền tơ tóc Vinh - dự - tang - thương một cõi này Trái đất già nua mà mới mẻ Âm thầm ngậm đắng vết thương vay Ra đi, ngày chật vô tình rộng Lá hát rung đều nhịp nước mây Ra đi. Thiên địa trầm ngâm thức Câu hỏi không lời dạt cỏ cây. ---------------- (1) Qui ẩn, về đâu? Thơ Tần Hoài Dạ Vũ. (2) Khúc ca qui ẩn. Thơ Tường Linh. (266/4-11) |
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com
Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.
Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo
...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...
Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân
HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.
...Lão du - già xát đầy mình tro tử thi vừa nguộiƯớp xác phàm bằng hương liệu sắc - không...
...ai đuổi theo xe tăng, bắn B40 vào xe tăng, rồi bị xe tăng nghiền nát trên con lộ Bốn?ai đạp phải mìn cụt một chân ở chi khu Xuân Lộc, rồi bằng nạng gỗ với một chân...
Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hoàng Phố - Tiến Thảo - Xuân Thanh - Võ Văn Luyến - Nguyên Hào - Hoàng Cát - Ngô Hữu Đoàn - Trần Kiêm Đoàn - Mai Thìn - Đặng Như Phồn - Tôn Phong - Kiều Trung Phương - Đinh Thu
Tên thật: NGÔ THỊ KIỀU HẠNHNăm sinh: 24 - 12 - 1983 tại Cam Ranh – Khánh Hòa Hội viên Hội VHNT Khánh HòaĐã có thơ đăng Kiến thức ngày nay, tuần báo Văn Nghệ, và nhiều tạp chí trong nước.
Sinh năm 1965 tại Thái Nguyên – Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, vừa viết văn làm thơ. Hiện đang là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tác giả của 4 cuốn tiểu thuyết gây sự chú ý của dư luận văn chương – Nhưng thơ mới là bản ngã sáng tạo chính của Nguyễn Bình Phương với 3 tập thơ đã xuất bản: Lam chướng; Xa thân; Từ chết sang trời biếc...
Là một tác giả thơ quen biết trên tạp chí Sông Hương, gần đây với tập thơ Ngày rất dài (NXB Hội Nhà văn, 2007), Đoàn Mạnh Phương đã và đang được dư luận chú ý bởi những nỗ lực cách tân thơ.
Sinh năm 1960 tại Hà Nội – Đã từng qua quân ngũ và hiện là biên tập viên của Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt . Đã xuất bản 3 tập thơ: Một, hai, ba; Nhật ký và Bài tập; Gửi một mùa cổ điển... Đã từng đoạt giải cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 1990, giải cuộc thi thơ Báo Người Hà Nội 2006.
Trần Đình Thành - Đức Sơn
Phạm Thị Anh Nga - Thanh Tuyền - Trần Kim Hồ - Vũ Thị Khương - Trần Khởi - Lê Hoàng Anh - Đoàn Lam - Trần Hữu Dũng - Đinh Tấn Phước - Nguyễn Loan - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Thánh Ngã - Lê Ngã Lễ - Nguyên Tiêu - Võ Ngọc Lan - Nguyễn Văn Quang - Ngô Thái Dương - Trần Hữu Lục - Ngô Cang
Nguyễn Hữu Quý - Trần Hoàng Phố - Nguyễn Khoa Điềm - Lam Hạnh - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Huy Tập - Mai Văn Phấn - Nguyễn Trọng Tạo - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vũ Thanh Hoa - Từ Nguyễn - Nguyễn Xuân Hoa - Mạnh Lê - Hồ Thế Phất - Nguyễn Lâm Cẩn - Tường Phong - Nguyễn Đông Nhật - Vũ Thành Chung
Huỳnh Thúy Kiều - Đức Sơn - Kiều Trung Phương - Thạch Quỳ - Lưu Ly - Trần Hạ Tháp - Nguyễn Thị Anh Đào - Văn Hữu Tứ - Văn Công Hùng - Nguyễn Tiến Chủng - Thái Doãn Long - Hải Trung - Đông Hà - Nguyễn Văn Thanh - Hồng Vinh - Phụng Lam - Nguyễn Thụy Kha
Lê Huy Hạnh - Trịnh Hoài Giang - Triệu Nguyên Phong - Phan Tuấn Anh - Bạch Diệp - Phan Văn Chương - Hồ Đắc Thiếu Anh - Mai Trâm - Đỗ Văn Khoái - Viêm Tịnh - Lưu Thị Bạch Liễu - Lãng Hiển Xuân - Nguyễn Thanh Kim - Vũ Thắng - Võ Quê - Ngàn Thương - Nguyễn Nguyên An - Lê Phương Thảo
Ngô Thị Hạnh - Vạn Lộc - Nguyễn Thiền Nghi - Lâm Anh - Hoàng Ngọc Quý - Trần Thị Huê - Đường Xuân Sử - Dương Thành Vũ - Nguyễn Thị Liên Tâm - Bùi Đức Vinh - Công Nam - Nguyễn Thanh Tú - Trần Áng Sơn
Nhà thơ mặc áo lính, trưởng thành lên từ dải đất miền Trung gió Lào cát trắng, Nguyễn Hữu Quý là một người thơ lặng lẽ và khiêm nhường - nhưng đấy là sự lặng lẽ đào sâu trong suy tưởng với những khát vọng làm mới thư luôn thôi thúc.Là một tác giả thơ quen thuộc, mùa xuân này anh gửi tới trang thơ Sông Hương một chùm thơ mới nhất, “mở hàng” cho một năm thơ trên Sông Hương.