PHẠM XUÂN PHỤNG
Xưa, về phương Nam có một chàng trai, mặt mày thanh tú, tính nết hồn hậu, tuổi trạc đôi mươi. Chưa có người gá nghĩa trăm năm nên cây xanh còn lẻ bóng. Tên chàng là La Hồng Phượng.
Minh họa: PHAN CHI
Không ai nơi cái làng sơn cước chàng ở hiểu chàng xuất xứ từ đâu. Chỉ biết chàng là người võ nghệ cao cường, đã mấy phen cứu làng đánh cọp. Những con cọp bị chàng đánh cũng chẳng chết, cũng chẳng bị thương. Chúng chỉ bị chàng đánh đau, sợ mà bỏ chạy, không bao giờ dám quay lại quấy nhiễu dân làng. Cũng không ai biết chàng học vấn ra sao. Chỉ thấy đêm đêm khi nàng trăng toả bóng, chàng lại ngồi dưới gốc cây tùng đọc sách. Gió rì rào bên tai và hoa rừng đưa hương thơm ngát như ru hồn chàng vào cõi mộng.
Một hôm giữa đêm khuya chàng tỉnh dậy, khăn gói lên đường. Dân làng không biết chàng đi đâu, lúc đầu nhắc với niềm luyến tiếc, lâu rồi cũng lãng quên. Cuộc đời lầm lũi của dân miền sơn cước có mấy khi rảnh để nhắc nhở một con người tuy tốt bụng, tài hoa, nhưng không mấy ai hiểu. Có kẻ kém tài, từ lâu đem lòng đố kị, nay thấy vậy phao tin: "Chàng trai có khi là yêu quái, giả dạng người làm việc thiện để mưu việc ác chi đây”. Lúc đầu, có người từng chịu ơn chàng, tức giận phản bác cái tin đồn vớ vẩn ấy. Riết rồi, chẳng ai nhắc đến chàng, cả điều tốt lẫn tiếng xấu. Chàng như hòn ngọc lăn xuống hồ sâu, chỉ loáng ánh hồng quang như ráng chiều vụt tắt. Mặt hồ thoáng dợn sóng buồn tiễn biệt rồi trở lại yên bình. Gió vẫn rì rào với ngàn cây và hoa rừng vẫn đưa hương ngan ngát. Nhưng bóng chàng trai nay đã xa rồi!
* * *
La Hồng Phượng dựng một căn lều nhỏ bên gốc cây tùng, nơi những đêm trăng xưa chàng thường ngồi đọc sách. Dân làng vui vẻ đón chàng trở về sau mấy năm xa cách. Giờ đây chàng xấp xỉ ba mươi, khuôn mặt nhuộm màu sương gió. Nhưng ánh mắt rực sáng long lanh và nụ cười - lạ thay - như hoa mơ chưa nở trọn. Chàng không còn mặc bộ võ phục đen tuyền như xưa. Bây giờ chàng thường mặc áo dài, đầu vấn khăn nhiễu xanh, chân đi giày cỏ. Trên bàn, một lọ mực, một cây bút lông. Bên gối một cuốn sách, một cánh hoa nhỏ. Chàng làm việc không kể đêm ngày. Sáng ở nhà khám bệnh, kê đơn. Chiều lên núi hái hoa, tìm thuốc. Chàng chữa bệnh không kể sang hèn, ai tặng gì không phân nhiều ít, chàng đều cảm ơn. Chàng kể với dân làng rằng: "Cơ duyên đến, gặp ân sư truyền thụ ĐẠO CỨU NGƯỜI. Ân sư trước lúc chia tay, có dặn: "Thuận thiên dã tồn, Nghịch địa dã vong"." Bệnh thông thường, chàng chỉ bốc một thang là khỏi. Bệnh nặng, quỷ bắt hồn đã đứng ở đầu giường, thấy chàng đến cũng cúp đuôi bỏ trốn. Người được chàng cải tử hoàn sinh kể đến hàng nghìn. Người bệnh tứ phương ùn ùn kéo đến. Riêng đức vua mãi lo đánh giặc phương xa, công chúa bận ngồi trang điểm nên không đến với chàng. Mỗi con bệnh qua khỏi cơn đau như tiếp thêm cho chàng sức mạnh. Danh tiếng Thần y vượt mọi núi sông. Tên thầy mo trong khắp xứ căm giận vì bị mất nghề lừa bịp, tìm đủ cách hãm hại chàng. Nhưng đã có dân làng ngày đêm bao bọc, nên lũ ác tâm chẳng thể làm gì. Chúng hằm hè chờ đợi.
Cho đến một hôm...
Thần y cứu người thì được, cứu mình chẳng xong. Bị quỷ sứ giữa ban trưa, quăng thòng lọng kéo hồn về chín suối. Đối diện với Diêm Vương, xưa nay có Tề Thiên là chẳng ngán. La Hồng Phượng là người trần, thấy địa ngục đã ba hồn mất bốn, nhìn vạc dầu đã bảy vía thiếu hai. Trên ngai cao, thập điện minh vương vểnh râu ngất nghểu. Dưới sân chầu, Thần y La Hồng Phượng xanh mặt quỳ run. Diêm Vương đập bàn quát:
- Tên La Hồng Phượng kia! Mi có biết tội hay chăng?
- Tâu Diêm Chúa! Cả đời con từ khi biết điều phải trái, chỉ nhất tâm hành thiện cứu người; chẳng hề gây tội ác, cúi xin Diêm chúa mở lượng hải hà cứu xét cho con nhờ!
- A! Tội đã rành rành còn bẻm mép. Phán quan đâu?
Thôi Phán quan nghe truyền lệnh vội ôm đến một tập sách dày chi chít chữ, rồi hắng giọng nói to:
- La Hồng Phượng nghe đây! Từ khi mi hành nghề bốc thuốc đến nay, mi đã cứu sống hàng nghìn người. Đây là danh sách. (Nói đoạn, đọc vanh vách tên người...). Có đúng không?
- Dạ đúng! La Hồng Phượng mừng khấp khởi, trả lời.
- Sinh tử là luật trời - Thôi Phán quan nói - Phàm làm muôn vật ở trần gian, đã có sinh là có diệt. Sinh sinh diệt diệt mãi chẳng cùng. Cớ sao mi dám làm trái luật Trời, cứu cho người hết số? Để đến nỗi địa ngục vắng teo, Diêm vương thiếu lính? Đó là tội của ngươi, biết chưa?
- Dạ, dạ. Thưa Ngài! Quả tình con chẳng biết cứu sống người lại mắc tội với Diêm Vương, con cứ tưởng thế là ẩn ác dương thiện. Con tình thật tỏ bày. Cúi xin ngài tâu với Diêm Vương tha cho con tội chết.
Thôi Phán quan động lòng thương, quỳ tâu:
- Tâu Diêm Vương! Tên này tuy làm trái luật Trời nhưng căn bản vốn thiện. Lỡ làm một đận, xin Diêm Vương tha cho y về trần gian lập công chuộc tội.
Diêm Vương nghe tâu, bớt giận, phán bảo:
- Lần này ta tha cho. Nhớ vô trần gian lập công chuộc tội.
La Hồng Phượng mừng quá vái lia lịa rồi... tỉnh giấc. Mồ hôi ra ướt áo. Nhớ cảnh địa ngục âm u, bất giác rùng mình sởn ốc. Ngặt lời thầy dạy, biết tính sao đây?
* * *
Từ đó, mỗi khi Thần y đi chữa bệnh, lại có quỷ bắt hồn nương bóng đi theo. Người chết ngày một nhiều, chẳng mấy chốc gần đủ số. La Hồng Phượng vừa mừng thoát nợ Diêm Vương, lại lo nỗi quên lời thầy dạy. Cứ bâng khuâng hai ngả dữ lành, ngày đêm ray rứt. Hồn những kẻ chết oan đâu có biết quỷ vương núp bóng người hiện ra để ra tay độc, cứ nhất tâm oán hận Thần y đã giết mình. Rủ nhau lên thiên đình kiện cáo. Ngọc Hoàng sai Thiên Lôi về trần bắt Thần y lên thiên đình xử tội. Các thiên thần nghị án, khép vào tội chết chẳng tha. Thiên lôi tuân lệnh đem Thần y ra thiên môn toan hạ búa. May đâu gặp Thái Bạch Kim tinh vừa tới, thấy vậy bèn hỏi. Thiên Lôi cứ y sự mà tỏ bày. Thái Bạch Kim tinh động lòng bèn bảo:
- Hãy khoan động thủ. Để ta vào tâu đã.
Nói đoạn vào tâu với Ngọc Hoàng:
- Muôn tâu Ngọc Hoàng Thượng đế! Thần đã nghe rõ đầu đuôi tội trạng này. Xét kỹ thì, tội đành đáng xử, tình thật nên thương. Không cứu người là trái lời thầy dạy, cứu sống người mắc tội với Diêm Vương. Để người chết phạm tội cùng Thượng đế.
Ngọc Hoàng nghe tâu, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán hỏi:
- Theo khanh, bây giờ nên xử thế nào?
- Tâu! Theo thần, bây giờ nên cho nó sống cuộc đời lộn ngược là xong.
- Sống ngược đời như vậy nghĩa làm sao? Ngọc Hoàng hỏi lại.
- Tâu! Sống ngược một đời, đó là bí quyết để tìm ra lẽ sống muôn đời.
Ngọc Hoàng chuẩn tấu.
* * *
Thế là trên trần gian, ở nơi làng cũ, có một kẻ xưa vốn là Thần Y, xưa nữa là chàng trai thông minh dĩnh ngộ, văn võ kiêm toàn; nay sống đời lộn ngược. Ban ngày nói lảm nhảm, ăn bậy bạ, chân tay quờ quạng như điên. Đêm về khi mọi người đã say, chàng lại tỉnh. Bao ý nghĩ sáng suốt tuyệt vời cứ hiện rõ trong đầu nhưng không biết tỏ cùng ai. Đau khổ tận cùng mà không sao giải được. Dân làng lúc đầu còn thương, năng lui tới vỗ về, cho đồng quà tấm bánh. Dần dà biết rõ Thần Y xưa, nay chỉ là thằng dở điên dở tỉnh, không được tích sự gì, lần lần tất cả xa lánh. Bọn thầy mo trong làng và các xứ được dịp trả thù, tha hồ bêu riếu Thần Y và kích động dân làng trừ diệt. Những kẻ chịu ơn chàng lúc đầu còn bảo vệ, mãi rồi đâm chán, hùa theo kẻ ác chửi rủa đêm ngày. Rốt cùng, vác dao gậy đuổi đánh Thần Y. Chàng hết chỗ dung thân ở cõi người, đành tìm non sâu ẩn nấp! Từ đó, ĐẠO CỨU NGƯỜl chẳng mấy ai dám học, tàn lụi dần. Nơi rừng sâu, giữa ban ngày vắng bóng người. Thần Y lại tỉnh. Chàng đem hết tài nghệ và tình thương chữa chạy cho chim chóc và muông thú. Chúng lại đêm ngày nuôi dưỡng chàng, gần gũi âu yếm sưởi ấm lòng người đang tan nát.
Một đêm, biết mình sắp lìa đời, La Hồng Phượng quỳ xuống khấn Ân sư: "lạy Ân sư nghìn lạy! Lời Ân sư con chẳng dám quên. Chẳng may, con không sao làm tròn được. Thuận Thiên thì nghịch Địa. Thuận Địa thì nghịch Thiên. Cả hai đàng đều mắc tội. Con đành chịu kiếp lưu đày, sống giữa rừng sâu cùng cỏ cây, muông thú. Lòng con thanh thản, không oán hận gì. Chỉ tiếc nỗi không sao thi hành được ĐẠO CỨU NGƯỜI như Ân sư hằng mong mỏi. Con thật đắc tội với Người!" Đoạn, chàng chắp tay vái tạ Đất Trời: "Hoàng Thiên Hậu Thổ soi xét lòng con. Con những mong ẩn ác dương thiện cho hợp với Đạo Trời. Chẳng may tài thô đức bạc mà đành mang tội với Đất Trời, chịu án lưu đày biệt xứ. Con quyết không một lời oán hận, không một ý khinh nhờn. Cúi xin Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám cho lòng thành của con, cho con sau khi chết được hóa thân thành một vật có ích cho Đời là thỏa nguyện". Khấn đoạn, La Hồng Phượng nhắm mắt lìa đời. Gió ngừng thổi. Hoa rừng thôi đua hương. Nhựa trong cây ngừng chảy. Chim chóc, muông thú đau buồn quần tụ bên di hài Thần Y. Cả vạn vật như bao trùm một nỗi buồn chìm đắm. Nhưng niềm đau vĩnh biệt bên trong cuồn cuộn dâng trào như nước ngầm trong đất chực trào sôi khi Thần Y vừa nhắm mắt. Lòng thành của chàng động đến Ngọc Hoàng. Ngài cho anh linh của chàng hóa thành một loài cây lạ. Cây sống lẩn khuất ở non cao hiểm trở, từ khi còn non đến lúc già chẳng có chi khác lạ nếu không bị làm đau. Vết thương của con người rỉ máu, vết thương của cây thì rỉ nhựa. Nhựa đau lắng chìm, lắng chìm rồi tụ lại ở góc thành khối. Để càng lâu, KHỐI ĐAU càng nặng, càng sắt lại, càng tinh khiết hơn. Gặp lúc cháy rừng, cây bị lửa thiêu. Lạ thay, khi ngọn lửa bạo tàn chạm đến, KHỐI ĐAU bỗng tỏa hương thơm ngát núi rừng. Và ngọn lửa bạo tàn đột nhiên tắt ngấm. Chim chóc và muông thú thoát nạn, nhảy nhót reo mừng. Chợt nghe mùi hương thơm, chúng bỗng dưng kéo về quần tụ lại quanh KHỐI ĐAU đang tỏa hương, thân thiết như chung một loài bên dư hương người cứu nạn; như thể Thần Y không chết bao giờ.
Về sau có người già biết được, đem KHỐI ĐAU của cây hay nỗi đau đời của Thần Y hóa thân, đốt lên trước bàn thờ tổ tiên. Khói vần vụ phảng phất dáng người và hương thơm kỳ lạ. Bèn đặt tên là TRẦM HƯƠNG ngụ ý là hương thơm chìm lặng. Còn gọi là KỲ NAM. Từ ấy, con người mỗi khi cúng tế đem TRẦM HƯƠNG đốt lên để tưởng nhớ anh linh người đã khuất.
P.X.P
(TCSH53/01&2-1993)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.