Huế và tôi

16:35 27/10/2015


NGUYỄN VIỆT CHIẾN

Ảnh: internet

Huế và tôi

Tôi vẫn nghe sông thở
Quanh đền đài trăm năm
Huế giấu thương vào nhớ
Để thành mưa xót thầm


Tôi hỏi tà áo tím:
Sao tên sông là Hương?
Em nhìn mưa rồi bảo:
Sông là nguồn rượu thơm


Và tôi nghe mưa đổ
Trên thành quách mơ màng
Mưa là men rượu chảy
Thơm suốt mùa Hương Giang


Tôi qua miền trầm tích
Lưu dấu bao đời vua
Nhớ thương non sông Việt
Soi mình vào cổ xưa


Tôi hỏi miền phế tích:
Hư danh và hư vô
Đấng minh quân bất diệt
Người ở đâu bây giờ?


Tôi nghe chuông Thiên Mụ
Vẳng qua miền luân hồi
Phế hưng bao đợt sóng
Từ vua làm dân thôi


Làm dân thì không lẽ
Phải sống cùng nghèo hèn
Nhưng làm vua cũng khổ
Sống, chết đầy bon chen
Tôi mơ vua Tự Đức
Viết thơ lên sông Hương
Lấy mưa chiều làm chữ
Mở trang sóng vô thường


Mở sách, nghe sóng kể:
Vua Gia Long thủa nào
Cử dân binh ra đảo
Giữ Hoàng Sa sóng trào


Tôi nghe thành lũy cũ
Kể chuyện bao lớp người
Đã ngã xuống vì Huế
Trong tên bay, đạn rơi


Họ như vừa trở lại
Đầu trần, đứng dưới mưa
Nghe sông Hương kể chuyện
Những mối tình không vua


Có một miền gái đẹp
Thao thức mấy trăm năm
Đêm nay, anh vào Huế
Hay anh về Kim Long?


Tôi vẫn nghe mưa đổ
Trên thành quách rêu phong
Chỉ Huế là còn lại
Với sông Hương lành trong


Và tôi thuộc về Huế
Như viên gạch cũ sờn
Nâng gót tà áo tím
Nàng thơ của sông Hương
                       
Huế, 16/9/2015

(SH320/10-15)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.