Hội Quảng Tri qua một số sách báo

14:35 08/01/2016

Một số thông tin chung

Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:

Phụ bản của họa sĩ Tôn Thất Đào trong tập văn họa

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Xuân Hoa, đầu thế kỷ XX ở Hà Nội giới trí thức và các nhà yêu nước đã lập ra Hội Khai Trí Tiến Đức để quảng bá tân văn hóa, truyền bá quốc ngữ, cổ vũ lòng yêu nước. Ở Huế, các nhà trí thức cũng lập ra một hội tương tự, đó là Hội Quảng Tri, ra đời năm 1905. Theo tài liệu do nhà nghiên cứu Bửu Ý cung cấp, Hội Quảng Tri là nơi quy tụ nhiều nhà trí thức đương thời, trong đó có nhiều nhân vật nổi tiếng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh...

Năm 1926, cụ Phan Bội Châu có các buổi diễn thuyết tại đây. Năm 1937, đại diện các tờ báo tiến bộ như Tiếng Dân, Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn họp tại đây và đưa ra yêu sách về quyền tự do báo chí.

Năm 1944, cũng tại đây, Hội Truyền bá quốc ngữ tổ chức một cuộc họp lớn với đông đảo học sinh và trí thức để cổ động việc nâng cao dân trí và cải thiện dân sinh.

Đây cũng là nơi tổ chức các buổi diễn thuyết, giới thiệu những công trình nghiên cứu, tác phẩm mới về văn chương. Hội Quảng Tri hoạt động đến năm 1968 thì suy yếu, sau năm 1975 hội giải tán.

Năm 1905

- Trang điện tử của Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt, mục từ Thái Quang Toản cho biết:

Thượng thư Thái Văn Toản triều Bảo Đại, quê làng Quy Thiên, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình Nho học, con ông Thái Văn Bút làm quan đời vua Thành Thái, Duy Tân, mẹ là ái nữ của Tùng Thiện vương là Tôn Nữ Như Ty. Thuở nhỏ, ông học ở Huế, tốt nghiệp Trường Thông ngôn Huế, từ năm 1902 làm thông dịch viên tại Phủ Thống sứ Bắc kỳ, sau đổi về làm việc tại Toà Khâm sứ Huế. Tại đây vào năm 1905, ông là người sáng lập kiêm Hội trưởng Hội Quảng Tri. Đây là một hội có tính cách văn hóa, giáo dục, nghệ thuật hoạt động lâu năm tại Huế.

Con trai ông là Thái Văn Vượng, cháu là Thái Văn Kiểm (giáo sư) đã có đóng góp một phần cho học thuật Việt Nam. Sau năm 1946, ông tản cư ra Nghệ An, tham gia kháng chiến trong cương vị Cố vấn Mặt trận Liên Việt Liên khu IV. Đến năm 1952, ông mất tại xã Bạch Ngọc, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, bài “Quảng Tri - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Hội Quảng Tri chính thức thành lập từ năm 1905 tại Huế. Và mặc dù chưa rõ tôn chỉ mục đích của Hội, nhưng tên Hội có ghi rõ bằng chữ Pháp là “Société d’ Enseignement mutuel”, các hoạt động của hội liên quan đến nội dung cổ vũ phát triển văn hóa Việt Nam, vinh danh các danh nhân, thực hiện các công việc bồi đắp xây dựng văn hiến nước nhà…

Năm 1934

- Báo Ấp Bắc, ngày 22/6/2015 đăng bài “Nguyễn Thị Kiêm - nữ nhà báo đa tài”, cho biết:

Đầu thế kỷ XX, cùng với sự ra đời của Nữ lưu thơ quán rồi kế tiếp là tờ Phụ nữ Tân văn (PNTV), ở Gò Công xuất hiện những phụ nữ nổi tiếng trên văn đàn, báo giới như: Phan Thị Bạch Vân, Cao Thị Khanh, Phạm Thị Thọ (Ni sư Diệu Tịnh)…

Đặc biệt, có một cây bút nữ xứng danh là một phụ nữ đa tài trên nhiều lĩnh vực, đó là nhà báo Nguyễn Thị Kiêm, người đương thời thường gọi là Manh Manh nữ sĩ.

Đặc biệt, đêm 8/5/1934, tại nhà Hội Quảng Tri - Huế, Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết đề tài “Dư luận nam giới đối với hạng phụ nữ tân tiến”. Thính giả có hơn ngàn người gồm trí thức, quan chức, học sinh, báo giới, văn giới… đã hoan nghinh nhiệt liệt “Người ta rầm rộ chen chúc đi ra. Con đường Paul Bert đã ngoài 9 giờ tối mà người ta còn chen nhau đi rất náo nhiệt, vừa đi vừa trầm trồ xưa nay ở Huế chưa có cuộc diễn thuyết nào đông như bữa nay” (Phụ nữ Tân văn số 248 ngày 24 Mai 1934).

Năm 1935

- Báo Tràng An, Huế, số 72 (5 Novembre 1935), tr. 2, có bài “Tại Hội Quảng Tri - Huế, ông Ưng Quả diễn thuyết”, có đoạn: “Tối chủ nhật vừa rồi, ông Ưng Quả, dạy ở trường Quốc học, diễn thuyết bằng tiếng tây tại hội Quảng Tri về cái đề mục: “Năm mươi năm đào luyện trí thức”. Người đến nghe rất đông… Ông Ưng Quả lấy ba đoạn văn cùng nói về sông Hương của bà Đạm Phương, của quan Tổng đốc Nguyễn Bá Trác, và của quan Thượng Phạm Quỳnh, để chứng cho ba thời kỳ trong sự tấn hóa của quốc văn. Bà Đạm Phương hoàn toàn cổ, quan Tổng đốc Nguyễn Bá Trác có chịu ảnh hưởng văn hóa mới một ít, quan Thượng Chi Phạm Quỳnh hoàn toàn mới.

…Ông Ưng Quả nói xong, một tràng vỗ tay. Cái công chúng ngày nay thực đã khác xa công chúng năm sáu năm về trước!

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, bài “Quảng Tri - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Năm 1935, Hội Quảng Tri dưới quyền ông hội trưởng mới là Nguyễn Học Sỹ có tổ chức “Lễ kỷ niệm tam thập chu niên” (30 năm thành lập) vào ngày 12 tháng mười - được biết là “ngày sinh nhật của Hội”.

Năm 1936

- Báo Sông Hương, Huế, số 17 (21 Novembre 1936), tr. 8, có đăng tin: “Kết quả Hội chợ đêm của Hội Quảng Tri”: “Cuộc chợ Đêm ngày 31-10-1936 vừa rồi do Hội Quảng Tri tổ chức ở Huế để giúp nạn dân miền Bắc được kết quả rất mỹ mãn. Tiền thu vào tổng cọng 950$33, ấy là kể luôn 200$ của Hoàng thượng và Hoàng hậu ân ban. Chi phí tất cả 141$02. Còn được 809$31 gởi ra Bắc.”

Năm 1937

- Bài nghiên cứu “Những vụ án văn học thế hệ 1932” của Thanh Lãng đăng tại địa chỉ (http:// chimviet.free.fr/vanhoc/thanhlng/thll053.htm) cho biết: “Aout (tháng 8) 1937: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở Hội Quảng Tri Huế”. (Về bênh vực thơ truyền thống, đả phá phong trào thơ mới - PV).

- Báo Sông Hương, Huế, số 26 (30 Janvier 1937), tr. 8, đưa tin: “Cuộc hội họp của báo giới Huế”: “Tiếp theo cuộc hội họp ở báo quán Nhành lúa tối 15/1/1937, vì một số đông các người có tên tuổi trong làng báo vắng mặt, tối thứ bảy 23/1/1937 tuần trước, lại có cuộc hội họp lần thứ hai, có giấy phép, tại Hội Quảng Tri, vẫn do báo Nhành lúa triệu tập. Tất cả 28 người, gần đủ mặt các báo ở Huế, vì có một vài tờ không dự. Mục đích cuộc hội họp nầy là để cử người đi xin phép chánh phủ cho mở một cuộc hội nghị báo giới toàn Kỳ hầu bàn việc xin lập một Nghiệp đoàn báo giới miền Trung”.

Năm 1942

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, đăng bài “Quảng  Tri  - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Năm 1942, Hội Quảng Tri - Huế tổ chức xuất bản Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du và đã đưa ra giới thiệu tại buổi lễ kỷ niệm Nguyễn Du trong hai đêm 19 và 20 tháng Chín. Hội Quảng Tri xuất bản ấn phẩm này với mục đích lấy tiền để sửa lại ngôi mộ Nguyễn Du tại quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Nội dung của Tập văn họa này, trong đó ngoài ảnh chụp tấm Bia kỷ niệm Nguyễn Du do Hội Khai trí tiến đức (Hà Nội) lập, các bài bình Kiều, đáng chú ý có 11 bức tranh của các họa sĩ Việt Nam xếp hạng đầu của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương lúc bấy giờ vẽ, như: Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lê Văn Đệ, Nguyễn Gia Trí, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung, Lương Xuân Nhị, Tôn Thất Đào, Phạm Hầu.

Mỗi họa sĩ chỉ chọn một chi tiết trong Truyện Kiều để vẽ. Tranh đẹp, ấn tượng. Có lẽ từ khi ấn hành vào năm 1942 đến giờ, Tập văn họa này là mục tiêu sưu tập của giới sưu tập Kiều trải qua nhiều thế hệ. Đến nay, quyển này còn lại ở Việt Nam có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay, và giá trao đổi của giới chơi sách thì “đắt như đồ cổ”.

Cách đây ít lâu, trên mạng eBay có một phiên đấu giá quyển Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du, và người mua được (đấu thắng) với giá 2750 EUR. Cái tin này gây chấn động giới chơi sách trong nước và khiến cho một vài nhà sưu tập đang sở hữu Tập văn họa này bỗng trở nên nâng niu hơn mỗi khi động đến quyển sách mà trước đó còn chưa ai đo đếm được một mức giá cụ thể.

Năm 1946

- Bác sĩ Lê Văn Lân trong khảo cứu “Những sân khấu một thời ở Huế”, cho biết: Hội Quảng Tri (廣知): phổ biến văn hóa tri thức) xây trên đường Hàng Bè ngó ra sông Đông Ba. Nơi này là hội trường cho những cuộc diễn thuyết vào thời trước, học giả Phạm Quỳnh cũng từng nói chuyện ở đây (Tạ Quang Bửu - Bốn năm học trường Quốc Học). Tôi còn nhớ vào năm 1946 gì đó, Ban kịch Anh Vũ của nhà thơ Thế Lữ cũng lưu diễn vở kịch Lôi Vũ của Tào Ngu tại Hội Quảng Tri.

- Tạp chí Sông Hương số 298, ra tháng 12/2013, đăng bài “Ngày ra đời tổ chức tiền thân của Liên Hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế” của Dương Phước Thu, cho biết: Báo Quyết chiến, Cơ quan Thành bộ Việt Minh thành phố Huế, về sau là của Việt Minh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên), đầu năm 1946 lại chuyển qua Hàng Bè, nay là đường Huỳnh Thúc Kháng (thực tế địa chỉ đó là ở Hội Quảng Tri).

Năm 1948

- “Từ điển tiếng Huế” (Bùi Minh Đức, quyển thượng, in lần thứ 3, tr 872) cho biết: “Nhà văn Georges Duhamel của Hàn Lâm Viện Pháp diễn thuyết tại Hội Quảng Tri nhằm dụ dỗ trí thức Huế “trở lại nề nếp xưa” như thời Pháp thuộc và bị học sinh Huế đả đảo tẩy chay”.

PHƯỚC VĨNH  
(SDB19/12-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)