Hội Quảng Tri qua một số sách báo

14:35 08/01/2016

Một số thông tin chung

Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:

Phụ bản của họa sĩ Tôn Thất Đào trong tập văn họa

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Xuân Hoa, đầu thế kỷ XX ở Hà Nội giới trí thức và các nhà yêu nước đã lập ra Hội Khai Trí Tiến Đức để quảng bá tân văn hóa, truyền bá quốc ngữ, cổ vũ lòng yêu nước. Ở Huế, các nhà trí thức cũng lập ra một hội tương tự, đó là Hội Quảng Tri, ra đời năm 1905. Theo tài liệu do nhà nghiên cứu Bửu Ý cung cấp, Hội Quảng Tri là nơi quy tụ nhiều nhà trí thức đương thời, trong đó có nhiều nhân vật nổi tiếng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh...

Năm 1926, cụ Phan Bội Châu có các buổi diễn thuyết tại đây. Năm 1937, đại diện các tờ báo tiến bộ như Tiếng Dân, Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn họp tại đây và đưa ra yêu sách về quyền tự do báo chí.

Năm 1944, cũng tại đây, Hội Truyền bá quốc ngữ tổ chức một cuộc họp lớn với đông đảo học sinh và trí thức để cổ động việc nâng cao dân trí và cải thiện dân sinh.

Đây cũng là nơi tổ chức các buổi diễn thuyết, giới thiệu những công trình nghiên cứu, tác phẩm mới về văn chương. Hội Quảng Tri hoạt động đến năm 1968 thì suy yếu, sau năm 1975 hội giải tán.

Năm 1905

- Trang điện tử của Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt, mục từ Thái Quang Toản cho biết:

Thượng thư Thái Văn Toản triều Bảo Đại, quê làng Quy Thiên, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình Nho học, con ông Thái Văn Bút làm quan đời vua Thành Thái, Duy Tân, mẹ là ái nữ của Tùng Thiện vương là Tôn Nữ Như Ty. Thuở nhỏ, ông học ở Huế, tốt nghiệp Trường Thông ngôn Huế, từ năm 1902 làm thông dịch viên tại Phủ Thống sứ Bắc kỳ, sau đổi về làm việc tại Toà Khâm sứ Huế. Tại đây vào năm 1905, ông là người sáng lập kiêm Hội trưởng Hội Quảng Tri. Đây là một hội có tính cách văn hóa, giáo dục, nghệ thuật hoạt động lâu năm tại Huế.

Con trai ông là Thái Văn Vượng, cháu là Thái Văn Kiểm (giáo sư) đã có đóng góp một phần cho học thuật Việt Nam. Sau năm 1946, ông tản cư ra Nghệ An, tham gia kháng chiến trong cương vị Cố vấn Mặt trận Liên Việt Liên khu IV. Đến năm 1952, ông mất tại xã Bạch Ngọc, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, bài “Quảng Tri - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Hội Quảng Tri chính thức thành lập từ năm 1905 tại Huế. Và mặc dù chưa rõ tôn chỉ mục đích của Hội, nhưng tên Hội có ghi rõ bằng chữ Pháp là “Société d’ Enseignement mutuel”, các hoạt động của hội liên quan đến nội dung cổ vũ phát triển văn hóa Việt Nam, vinh danh các danh nhân, thực hiện các công việc bồi đắp xây dựng văn hiến nước nhà…

Năm 1934

- Báo Ấp Bắc, ngày 22/6/2015 đăng bài “Nguyễn Thị Kiêm - nữ nhà báo đa tài”, cho biết:

Đầu thế kỷ XX, cùng với sự ra đời của Nữ lưu thơ quán rồi kế tiếp là tờ Phụ nữ Tân văn (PNTV), ở Gò Công xuất hiện những phụ nữ nổi tiếng trên văn đàn, báo giới như: Phan Thị Bạch Vân, Cao Thị Khanh, Phạm Thị Thọ (Ni sư Diệu Tịnh)…

Đặc biệt, có một cây bút nữ xứng danh là một phụ nữ đa tài trên nhiều lĩnh vực, đó là nhà báo Nguyễn Thị Kiêm, người đương thời thường gọi là Manh Manh nữ sĩ.

Đặc biệt, đêm 8/5/1934, tại nhà Hội Quảng Tri - Huế, Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết đề tài “Dư luận nam giới đối với hạng phụ nữ tân tiến”. Thính giả có hơn ngàn người gồm trí thức, quan chức, học sinh, báo giới, văn giới… đã hoan nghinh nhiệt liệt “Người ta rầm rộ chen chúc đi ra. Con đường Paul Bert đã ngoài 9 giờ tối mà người ta còn chen nhau đi rất náo nhiệt, vừa đi vừa trầm trồ xưa nay ở Huế chưa có cuộc diễn thuyết nào đông như bữa nay” (Phụ nữ Tân văn số 248 ngày 24 Mai 1934).

Năm 1935

- Báo Tràng An, Huế, số 72 (5 Novembre 1935), tr. 2, có bài “Tại Hội Quảng Tri - Huế, ông Ưng Quả diễn thuyết”, có đoạn: “Tối chủ nhật vừa rồi, ông Ưng Quả, dạy ở trường Quốc học, diễn thuyết bằng tiếng tây tại hội Quảng Tri về cái đề mục: “Năm mươi năm đào luyện trí thức”. Người đến nghe rất đông… Ông Ưng Quả lấy ba đoạn văn cùng nói về sông Hương của bà Đạm Phương, của quan Tổng đốc Nguyễn Bá Trác, và của quan Thượng Phạm Quỳnh, để chứng cho ba thời kỳ trong sự tấn hóa của quốc văn. Bà Đạm Phương hoàn toàn cổ, quan Tổng đốc Nguyễn Bá Trác có chịu ảnh hưởng văn hóa mới một ít, quan Thượng Chi Phạm Quỳnh hoàn toàn mới.

…Ông Ưng Quả nói xong, một tràng vỗ tay. Cái công chúng ngày nay thực đã khác xa công chúng năm sáu năm về trước!

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, bài “Quảng Tri - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Năm 1935, Hội Quảng Tri dưới quyền ông hội trưởng mới là Nguyễn Học Sỹ có tổ chức “Lễ kỷ niệm tam thập chu niên” (30 năm thành lập) vào ngày 12 tháng mười - được biết là “ngày sinh nhật của Hội”.

Năm 1936

- Báo Sông Hương, Huế, số 17 (21 Novembre 1936), tr. 8, có đăng tin: “Kết quả Hội chợ đêm của Hội Quảng Tri”: “Cuộc chợ Đêm ngày 31-10-1936 vừa rồi do Hội Quảng Tri tổ chức ở Huế để giúp nạn dân miền Bắc được kết quả rất mỹ mãn. Tiền thu vào tổng cọng 950$33, ấy là kể luôn 200$ của Hoàng thượng và Hoàng hậu ân ban. Chi phí tất cả 141$02. Còn được 809$31 gởi ra Bắc.”

Năm 1937

- Bài nghiên cứu “Những vụ án văn học thế hệ 1932” của Thanh Lãng đăng tại địa chỉ (http:// chimviet.free.fr/vanhoc/thanhlng/thll053.htm) cho biết: “Aout (tháng 8) 1937: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở Hội Quảng Tri Huế”. (Về bênh vực thơ truyền thống, đả phá phong trào thơ mới - PV).

- Báo Sông Hương, Huế, số 26 (30 Janvier 1937), tr. 8, đưa tin: “Cuộc hội họp của báo giới Huế”: “Tiếp theo cuộc hội họp ở báo quán Nhành lúa tối 15/1/1937, vì một số đông các người có tên tuổi trong làng báo vắng mặt, tối thứ bảy 23/1/1937 tuần trước, lại có cuộc hội họp lần thứ hai, có giấy phép, tại Hội Quảng Tri, vẫn do báo Nhành lúa triệu tập. Tất cả 28 người, gần đủ mặt các báo ở Huế, vì có một vài tờ không dự. Mục đích cuộc hội họp nầy là để cử người đi xin phép chánh phủ cho mở một cuộc hội nghị báo giới toàn Kỳ hầu bàn việc xin lập một Nghiệp đoàn báo giới miền Trung”.

Năm 1942

- Báo Tuổi Trẻ ngày 26/11/2015, đăng bài “Quảng  Tri  - Quảng Trị: Cái dấu nặng không nhẹ” cho biết: Năm 1942, Hội Quảng Tri - Huế tổ chức xuất bản Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du và đã đưa ra giới thiệu tại buổi lễ kỷ niệm Nguyễn Du trong hai đêm 19 và 20 tháng Chín. Hội Quảng Tri xuất bản ấn phẩm này với mục đích lấy tiền để sửa lại ngôi mộ Nguyễn Du tại quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Nội dung của Tập văn họa này, trong đó ngoài ảnh chụp tấm Bia kỷ niệm Nguyễn Du do Hội Khai trí tiến đức (Hà Nội) lập, các bài bình Kiều, đáng chú ý có 11 bức tranh của các họa sĩ Việt Nam xếp hạng đầu của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương lúc bấy giờ vẽ, như: Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lê Văn Đệ, Nguyễn Gia Trí, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung, Lương Xuân Nhị, Tôn Thất Đào, Phạm Hầu.

Mỗi họa sĩ chỉ chọn một chi tiết trong Truyện Kiều để vẽ. Tranh đẹp, ấn tượng. Có lẽ từ khi ấn hành vào năm 1942 đến giờ, Tập văn họa này là mục tiêu sưu tập của giới sưu tập Kiều trải qua nhiều thế hệ. Đến nay, quyển này còn lại ở Việt Nam có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay, và giá trao đổi của giới chơi sách thì “đắt như đồ cổ”.

Cách đây ít lâu, trên mạng eBay có một phiên đấu giá quyển Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du, và người mua được (đấu thắng) với giá 2750 EUR. Cái tin này gây chấn động giới chơi sách trong nước và khiến cho một vài nhà sưu tập đang sở hữu Tập văn họa này bỗng trở nên nâng niu hơn mỗi khi động đến quyển sách mà trước đó còn chưa ai đo đếm được một mức giá cụ thể.

Năm 1946

- Bác sĩ Lê Văn Lân trong khảo cứu “Những sân khấu một thời ở Huế”, cho biết: Hội Quảng Tri (廣知): phổ biến văn hóa tri thức) xây trên đường Hàng Bè ngó ra sông Đông Ba. Nơi này là hội trường cho những cuộc diễn thuyết vào thời trước, học giả Phạm Quỳnh cũng từng nói chuyện ở đây (Tạ Quang Bửu - Bốn năm học trường Quốc Học). Tôi còn nhớ vào năm 1946 gì đó, Ban kịch Anh Vũ của nhà thơ Thế Lữ cũng lưu diễn vở kịch Lôi Vũ của Tào Ngu tại Hội Quảng Tri.

- Tạp chí Sông Hương số 298, ra tháng 12/2013, đăng bài “Ngày ra đời tổ chức tiền thân của Liên Hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế” của Dương Phước Thu, cho biết: Báo Quyết chiến, Cơ quan Thành bộ Việt Minh thành phố Huế, về sau là của Việt Minh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên), đầu năm 1946 lại chuyển qua Hàng Bè, nay là đường Huỳnh Thúc Kháng (thực tế địa chỉ đó là ở Hội Quảng Tri).

Năm 1948

- “Từ điển tiếng Huế” (Bùi Minh Đức, quyển thượng, in lần thứ 3, tr 872) cho biết: “Nhà văn Georges Duhamel của Hàn Lâm Viện Pháp diễn thuyết tại Hội Quảng Tri nhằm dụ dỗ trí thức Huế “trở lại nề nếp xưa” như thời Pháp thuộc và bị học sinh Huế đả đảo tẩy chay”.

PHƯỚC VĨNH  
(SDB19/12-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...