Giây phút của sự thật

14:57 20/09/2021

GRAHAM GREEN

Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.

Minh Họa: Phạm Đại

Tuy vậy ta vẫn ấp ủ một nỗi mong ước muốn tâm sự với một ai đó - có thể là một kẻ không quen giữa phố - Athur Burton mang trong lòng nỗi bí mật của mình - từ phòng ăn đến nhà bếp rồi lại từ nhà bếp ra đến phòng ăn, hoàn toàn giống như bao năm nay anh mang dọn những món ăn và chuyển những đề nghị của khách hàng tại một quán ăn ở Kensington, quán ông August. Quán không có vẻ gì là Pháp ngoài cái tên và bản thực đơn: thực đơn giới thiệu những món ăn Anh mang tên Pháp và cứ mỗi món lại có lời giải thích dài dòng bằng tiếng Anh.

Tối thiểu hai lần mỗi tuần, có một cặp vợ chồng người Mỹ đặt riêng một bàn ăn nhỏ ở góc quán, cạnh cửa sổ. Người chồng chừng 60 tuổi, vợ thì gần 50, một cặp vợ chồng hạnh phúc.

Có những hạng khách mà ngay lần đầu tiên gặp gỡ người ta đã có thiện cảm. Họ tham khảo ý kiến Athur Burton trước khi đặt món ăn và kế đó ngợi khen anh về cách góp ý chọn lựa của anh. Ngay cả việc chọn rượu, họ cũng hoàn toàn giao phó cho anh, và kể từ lúc đến quán lần thứ hai, còn hỏi han anh những chuyện đời tư nho nhỏ, như thể Athur cũng là một khách ăn mà họ mong biết rõ.

- Anh làm việc tại quán này đã lâu rồi chứ?" Ông Hogminster hỏi (Một cái tên đặc biệt mà Athur Burton đã khám phá được lúc cái ông người Mỹ này gọi điện thoại để giữ bàn trước).

- Chừng hai mươi năm. Hồi tôi mới đến làm, quán này không phải thế. Hồi đó gọi là quán Quee’s.

- Thế thì trước kia tốt hơn nhỉ?

Athur Burton cố gắng giữ trung thực.

- Tôi không cho rằng tốt hơn. Chỉ giản dị hơn thôi. Nhưng thị hiếu thì không biến đổi.

- Ông chủ của anh là người Pháp chứ?

- Thưa ông không, nhưng tôi chắc rằng ông đã du lịch nhiều ở Pháp.

- Chúng tôi rất mãn nguyện khi có sự giúp đỡ của anh. Chúng tôi không biết hết mọi chữ Pháp trên thực đơn.

- Nhưng thưa ông, đã có lời giải thích bằng tiếng Anh.

- Tôi tin rằng người ta cũng không hiểu cái tiếng Anh ấy nốt. Ngày mai thế nào chúng tôi cũng trở lại đấy nếu anh có thể dành riêng cũng cái bàn này cho chúng tôi, Athur ạ, đúng không nhỉ? Dường như tôi nghe ông chủ anh gọi anh như thế?

- Rất đúng, thưa ông. Tôi sẽ chú ý để dành riêng cho ông bà chỗ này.

- Và những lời góp ý của anh nữa, Athur. Bà Hogminster nói.

Anh lấy làm xúc động vì cách gọi anh bằng tên riêng và việc bà Hogminster mỉm cười với anh hết sức thân thiện. Anh chưa hề tưởng đến điều như thế trong suốt bao nhiêu năm phục vụ.

Athur vốn có thói quen kín đáo quan sát khách hàng chỉ vì để anh vẫn còn tiếp tục yêu thích nghề nghiệp bởi lẽ từ nay anh không thể đổi nghề được nữa. Anh cảm thấy già nua, chẳng có gì kích thích anh đổi thay. Anh biết giờ đây đã quá muộn "Nỗi nghiệt ngã của cái chết" đã chạm tới anh.

Thường khi vào buổi tối, lúc trở về nhà - nếu có thể gọi là nhà - một căn phòng có đồ đạc và một vòi nước tắm chung - anh lại hồi tưởng một số khách hàng. Những cặp vợ chồng ăn trưa với nhau dường như với vẻ lạnh nhạt và chực đợi khách mới xuất hiện với một vẻ khao khát nào đấy, lúc họ có điều buộc phải trao đổi với nhau. Những cặp tình nhân mới kết không thèm để ý gì đến mọi sự trên đời. Đôi khi lại là một thiếu phụ trẻ, đã có chồng (anh luôn luôn liếc nhìn bàn tay trái của họ) vẻ ưu tư, có một gã đàn ông nhiều tuổi hơn nàng đi kèm. Nàng nói nhỏ giọng hoặc im bặt lúc có người ngồi vào bàn kế bên - mà Athur Burton mong sao có thể để trống được, để cặp kia có thể giải quyết vấn đề riêng tư được thoải mái.

Đêm ấy lúc trở về nhà Athur nghĩ ngợi đến ông bà Hogminster. Anh tiếc đã không nói được nhiều hơn với họ. Anh cảm thấy rằng có thể tin cậy được họ cũng như mọi kẻ xa lạ gặp gỡ giữa phố. Ít ra anh cũng có thể nói bóng gió về nỗi nghiệt ngã day dứt ấy mà lâu nay vẫn chia cách anh với ông giám đốc, với ông đầu bếp, với những người phục vụ và với những tay rửa bát - Không gì hết ngoài một lời bóng gió, hẳn nhiên, vì anh chẳng muốn làm phiền ai.

Hôm sau, họ đến muộn nửa giờ. Ông giám đốc muốn dành bàn ấy cho khách khác cũng muốn ngồi nơi ấy. Ông bảo:

- Họ sẽ không đến đâu. Dẫu sao, họ cũng có thể chọn ba bàn còn lại.

- Nhưng họ lại ưa ngồi nơi đây và tôi đã hứa để dành cho họ - Athur bảo và còn nói thêm "Những người ấy rất tử tế".

Suýt nữa anh buộc phải thuận theo ý ông chủ nếu cặp Hogminster không đến kịp thời.

- Tôi rất lấy làm tiếc, Athur ạ, chúng tôi đến muộn quá. Anh xúc động rằng bà Hogminster vẫn còn nhớ tên riêng của anh.

- Nhằm vào ngày bán hàng đại hạ giá. Chúng tôi bị mê hoặc.

- "Bà ấy" bị mê hoặc, ông Hogminster chữa lại.

- Ô, ngày mai rồi đến lượt ông đấy thôi.

- Có những quán ăn gần những gian hàng bán đồ nam giới hơn đấy. Athur giải thích - Tôi có thể giới thiệu cho ông bà một quán đàng phố Jermyn.

- Ồ, nhưng chúng tôi lại thích quán bà Augustine này.

- "Quán ông Auguste" - Ông Hogminster chữa lại.

- Vả lại có anh góp ý cho chúng tôi rất tốt nữa, anh Athur ạ. Chúng tôi khỏi phải nghĩ ngợi gì cả.

Kẻ mang trong lòng một niềm bí mật là một người rất cô độc. Đối với Athur, có thể vén lên đầu chỉ một góc màn bí mật cũng đủ là một niềm yên ủi nhẹ lòng rồi.

- "Tôi rất tiếc, thưa bà, nhưng ngày mai tôi không còn làm việc ở đây nữa. Dẫu sao, tôi chắc rằng ông giám đốc...

- Không còn làm việc đây nữa? Tai họa chưa! Mà tại sao thế?

- Tôi phải vào bệnh viện.

- Athur, tôi hết sức buồn. Nhưng vì sao thế? Có điều gì quan trọng lắm sao?

- Thưa bà, để tổng kết về sức khỏe.

- Như thế là khôn đấy - ông Hogminster bảo. Tôi rất nhất trí với việc khám tổng kết.

- Ông ấy đã khám đến bốn hoặc sáu lần gì rồi đấy. Bà vợ nói thêm - Tôi cho rằng ông ấy ưa ý chuyện khám bệnh lắm, còn tôi, việc ấy luôn luôn làm tôi lo lắng. Tại sao người ta muốn khám anh vậy?

- Họ đã làm xét nghiệm rồi. Đến nay họ phải cho tôi biết kết quả.

- Ồ, tôi chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi, anh Athur.

- Thưa bà, tôi mãn nguyện rằng quán này đã làm quý vị vừa ý.

- Rất thỏa mãn. Và chính chúng tôi phải mang ơn anh về điều này.

- Tôi rất tiếc phải nói lời từ giã với ông bà. Athur Burton nói một cách thành thực.

- Ồ, không, chưa đâu. Thứ năm này chúng tôi sẽ trở lại. Chúng tôi sẽ nghe theo lời khuyên của anh và ngày mai chúng tôi sẽ dùng bữa tại quán gần gian hàng bán đồ nam giới, nhưng chúng tôi sẽ đến ăn bữa cuối cũng tại quán bà Augustine nầy.

- Tại "quán ông Auguste" - ông Hogminster chữa lại thêm một lần nữa, nhưng bà vợ lại chẳng để ý.

- Chúng tôi đáp máy bay đi New York vào thứ sáu này nhưng chúng tôi sẽ gặp lại anh vào thứ năm để nghe anh báo tình hình sức khỏe của anh. Tôi chắc sẽ tốt đẹp. Tôi cầu phúc cho anh, nhưng quả tình, thâm tâm tôi không lấy làm lo lắng gì cả.

- Cứ mỗi sáu tháng tôi lại đi khám tổng quát - ông Hogminster nhấn mạnh - Kết quả luôn luôn hoàn hảo.

- Thưa bà, bà có cần món gì đặc biệt vào thứ năm này không? Tôi có thể đề nghị với ông giám đốc...

- Không, không, chúng tôi sẽ dùng những món mà anh đề nghị với chúng tôi. Thứ năm nhé. Chúc may mắn, anh Athur.

***
Athur hiểu rằng chẳng ích gì mà hy vọng. Anh đã biết rõ điều ấy ngay cả trước khi xét nghiệm, bằng vào cái giọng lấp lững của bác sĩ. Anh tự hỏi liệu một người ngồi ở băng ghế bị cáo có thể đoán trước được những lời tuyên án trước lúc hội đồng thẩm phán rút lui để nghị án? Vào thuở hãy còn án tử hình - liệu nỗi hổ thẹn có lan tràn từ cả nhóm đến tư tưởng phán quyết mà bản án sắp công bố chăng? Tuy vậy, Athur cảm thấy một nỗi khinh khoái vì cuối cùng anh đã thú nhận được một nửa phần cái tội nghiệt ngã của anh với bà Hogminster và bà đã không xem nhẹ. Như anh vẫn yên trí, và không kể những ba hoa lạc quan về thuốc men mà thiên hạ không quên vây bọc anh, nếu lời tuyên án là cái chết, thì bà Hogminster liệu có sẽ là người không quen gặp gỡ giữa phố mà anh có thể thổ lộ mọi điều không? Họ sẽ không gặp lại nhau nữa. Thứ sáu này, bà sẽ đi New York. Họ cũng không có bạn bè quen chung để qua đó bà có thể biết được nỗi oan nghiệt của anh. Anh cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi trìu mến đối với bà.

Đêm ấy, Athur Burton mơ thấy bà Hogminster. Không phải là một giấc mơ tính dục, cũng không phải là giấc mơ tình ái, chỉ thuần túy là một giấc mơ bình thường trong ấy bà đóng một vai trò không quan trọng. Nhưng lúc tỉnh dậy, Athur cảm thấy một cảm giác yên ổn mà anh không hề biết từ mấy tháng nay. Như thể anh đã nói với bà và bà đã chọn đúng lời để bày tỏ thiện cảm với anh. Đôi lời ấy đã giúp Athur có can đảm đối đầu với những kẻ thù của anh đang sắp sửa bóc trần cái sự thật xấu hổ ấy.

Anh bận tâm suốt ngày mặc dù mãi đến 5 giờ chiều mới là giờ hẹn. Lúc anh đến, anh còn phải nán chờ nửa giờ nữa. Bác sĩ giải phẫu mời anh ngồi với vẻ thông cảm long trọng đến nỗi Athur Burton có thể hình dung khá chính xác bản tổng kết sắp đưa ra.

- "Phải giải phẫu khẩn cấp". Vâng, đúng là ung thư, nhưng ông không nên hoảng sợ vì cái tên bệnh. Tôi biết có nhiều trường hợp cũng nghiêm trọng như ông... Chữa kịp thời, có thể có nhiều hy vọng.

- Bác sĩ muốn giải phẫu vào lúc nào?

- Tôi khuyên ông nên nhập viện vào sáng mai và tôi sẽ mổ cho ông vào ngày mốt?

- Liệu tôi có thể nhập viện vào buổi chiều được không?- Ông hiểu cho, tôi có việc bận với người ta vào sáng mai. Anh không nghĩ đến công việc nhưng đến bà Hogminster. Hẳn bà ấy đợi tin anh.

- Tôi dứt khoát muốn rằng ông phải nằm yên trên giường một ngày tròn. Rồi... vào lúc 6 giờ tôi sẽ đến gặp ông với chuyên viên gây mê.

Tối hôm ấy nằm trong giường, Athur Burton tự nhủ các bác sĩ giải phẫu hiển nhiên không phải là những nhà tâm lý chút nào. Họ quá chú ý đến thân xác đến nỗi quên mất vấn đề tinh thần và họ chẳng có chút ý thức về điều mà âm sắc của giọng nói có thể gợi lên. Họ bảo: "Có thể còn nhiều hy vọng" nhưng người bệnh lại nghe: "Có rất ít hy vọng", hoặc "Chẳng có chút hy vọng nào!".

Không phải là anh sợ chết. Chẳng có ai thoát khỏi số phận chung ấy, vả lại con người trên hành tinh không phải bị ngự trị bởi nỗi sợ hãi. Athur Burton chỉ mong chia sẻ sự hiểu biết và niềm bí ẩn của mình với một kẻ không quen, mà họ sẽ không quá xúc động theo kiểu của một người vợ hoặc một đứa con, (Athur không có vợ cũng chẳng có con) mà biết bày tỏ rằng chính họ cũng đắm chìm trong một nỗi niềm bí mật oan nghiệt ấy bằng một lời lẽ nhiệt tình. "Tôi bị lên án".

Bà Hogminster là nhân vật ấy. Anh đã đọc thấy điều đó trong mắt bà. Ngày mai lúc bà hỏi anh về kết quả cuộc xét nghiệm, anh sẽ tìm ra cách để làm cho bà hiểu sự thật - mà không cần đến ngôn ngữ, vì điều ấy sẽ không hội nhập bà Hogminster với nỗi oan khiên của anh. "Bác sĩ bảo anh thế nào Athur? - Bà ta sẽ hỏi như thế. Anh sẽ trả lời ra sao? Không, không cần đến lời nói. Chỉ một cái nhún vai nhẹ cũng đủ diễn tả hết mọi thứ. "Thế là tiêu rồi! Cám ơn đã có nghĩ về tôi". Và cái nhìn mà bà ném trả lại cho anh với cùng một cách kín đáo ấy nói lên rằng bà biết chia sẻ nỗi bí ẩn của anh.

Anh sẽ không dấn bước một mình vào tương lai.

- Không cần giữ bàn nữa, ông giám đốc thông báo - Cặp vợ chồng người Mỹ ấy đã đến đây hôm qua. Và tôi đã tìm cho họ một bàn khác và họ rõ ràng rất ưa ý.

- Họ có đến đây hôm qua à?

- Vâng, quả tình họ có vẻ rất thích nơi này.

- Tôi cho rằng họ đã đi xem đồ bán hạ giá cho nam giới.

- Thế nữa kia, tôi không biết phải nói sao với anh. Nhưng tôi nghĩ dường như anh nói chuyện quá nhiều với khách hàng thì phải. Thường thì họ muốn được yên ổn với nhau.

Ông giám đốc vội bước ra cửa quán để đón ông và bà Hogminster. Họ đi về phía một bàn nhỏ riêng biệt trong góc phòng. Lúc đi ngang qua, bà Hogminster gật đầu chào Athur và mỉm cười với anh. Ngồi ở chỗ mới ấy, họ không thể thấy đường phố được nhưng cũng rất có thể như ông giám đốc đã nhắc nhở anh, họ muốn được yên ổn với nhau - cũng có thể họ muốn được ông giám đốc đích thân phục vụ họ.

Chỉ sau khi họ dùng bữa và trả tiền xong thì bà Hogminster mới gọi anh trong lúc anh đang đi vào bếp:

- Athur, đến đây nói chuyện với chúng tôi một chút.

Anh vui vẻ đến gần, tâm hồn tự dưng khinh khoái.

- Hôm qua chúng tôi đã không gặp anh Athur, nhưng ông giám đốc thật là nhã nhặn. Chúng tôi không muốn làm phiền ông ấy.

- Tôi mong rằng quý vị đã dùng bữa được ngon miệng, thưa bà.

- Ồ, lúc nào ở quán bà Augustine này cũng ngon.

- Ồ, "quán ông Auguste" chứ! Ông Hogminster chữa lại.

- Còn chuyện mua hàng hạ giá, anh có lý hết sức lúc khuyên chúng tôi đến phố Jermyn Street. Chồng tôi đã mua hai bộ pijama và ba..., anh thử tính xem, ba áo sơ mi lận!

- Tất nhiên là chính bà ấy chọn đấy! Ông Hogminster nói.

Athur Burton xin lỗi và đi vào bếp. Vấn đề anh vẫn lo ngại đã không xảy ra, nhưng ý tưởng ấy không làm nỗi niềm bí ẩn nặng trĩu của anh nhẹ bớt chút nào. Anh sẽ không nói gì với ông chủ. Chỉ giản dị, ngày mai anh sẽ không đi làm nữa. Đến một lúc nào đấy, bệnh viện sẽ cho họ biết anh đã chết hoặc đang còn sống.

Anh hết sức hạn chế xuất hiện trong phòng ăn, mặc dù anh rất khổ tâm khi thấy một người phục vụ khác đang săn sóc ông bà Hogminster và trao đổi lời với họ.

Nửa giờ sau, ông giám đốc đến nói chuyện với anh trong bếp. Ông cầm trong tay một lá thư.

- Bà Hogminster yêu cầu tôi đưa cái này lại cho anh. Họ đã ra phi trường rồi.

Athur nhét lá thư vào túi. Anh cảm thấy lòng hết sức nhẹ nhõm. Bà Hogminster có lý thật. Họ không thể nào trao đổi với nhau về bí mật của anh ở bên trong quán ăn trước mắt thiên hạ. Giờ đây, anh sẽ mang theo chứng cớ lân cảm mà bà Hogminster đến tận bệnh viện và anh có thể đọc nó lại vào ngày hôm sau ngay trước khi chuyên viên gây mê đến. Anh không còn cảm thấy cô độc. Ra phố, anh hẳn sẽ cầm tay một phụ nữ không quen. Hẳn nhiên, bà ấy sẽ không bao giờ được nghe trả lời cho câu hỏi: "Bác sĩ đã bảo gì với anh?" nhưng bà ấy đã gởi lại cho anh một lá thư và điều này mới đáng kể.

Trước lúc tắt đèn ở đầu giường trong bệnh viện, anh mở phong thư. Anh hết sức kinh ngạc lúc thấy thoạt tiên rơi ra ba tờ giấy bạc một bảng.

Bà Hogminster đã viết như sau: Athur thân mến, tôi nghĩ rằng phải viết cho anh đôi lời để cám ơn anh trước khi chúng tôi lên máy bay. Chúng tôi hết sức thỏa lòng về những lúc đến quán bà Augustine và chắc chắn một ngày kia chúng tôi sẽ trở lại. Còn về hàng đại hạ giá, chúng tôi đã mua chác cực kỳ thú vị. Anh hết sức có lý về chuyện phố Jermyn Street.

Cuối thư, ký tên Dolly Hogminster.

ĐỖ HỮU THẠNH dịch

(Báo Le Monde Diplomatique tháng 4/1989)
(TCSH49/05&6-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật

  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.