Giây phút của sự thật

14:57 20/09/2021

GRAHAM GREEN

Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.

Minh Họa: Phạm Đại

Tuy vậy ta vẫn ấp ủ một nỗi mong ước muốn tâm sự với một ai đó - có thể là một kẻ không quen giữa phố - Athur Burton mang trong lòng nỗi bí mật của mình - từ phòng ăn đến nhà bếp rồi lại từ nhà bếp ra đến phòng ăn, hoàn toàn giống như bao năm nay anh mang dọn những món ăn và chuyển những đề nghị của khách hàng tại một quán ăn ở Kensington, quán ông August. Quán không có vẻ gì là Pháp ngoài cái tên và bản thực đơn: thực đơn giới thiệu những món ăn Anh mang tên Pháp và cứ mỗi món lại có lời giải thích dài dòng bằng tiếng Anh.

Tối thiểu hai lần mỗi tuần, có một cặp vợ chồng người Mỹ đặt riêng một bàn ăn nhỏ ở góc quán, cạnh cửa sổ. Người chồng chừng 60 tuổi, vợ thì gần 50, một cặp vợ chồng hạnh phúc.

Có những hạng khách mà ngay lần đầu tiên gặp gỡ người ta đã có thiện cảm. Họ tham khảo ý kiến Athur Burton trước khi đặt món ăn và kế đó ngợi khen anh về cách góp ý chọn lựa của anh. Ngay cả việc chọn rượu, họ cũng hoàn toàn giao phó cho anh, và kể từ lúc đến quán lần thứ hai, còn hỏi han anh những chuyện đời tư nho nhỏ, như thể Athur cũng là một khách ăn mà họ mong biết rõ.

- Anh làm việc tại quán này đã lâu rồi chứ?" Ông Hogminster hỏi (Một cái tên đặc biệt mà Athur Burton đã khám phá được lúc cái ông người Mỹ này gọi điện thoại để giữ bàn trước).

- Chừng hai mươi năm. Hồi tôi mới đến làm, quán này không phải thế. Hồi đó gọi là quán Quee’s.

- Thế thì trước kia tốt hơn nhỉ?

Athur Burton cố gắng giữ trung thực.

- Tôi không cho rằng tốt hơn. Chỉ giản dị hơn thôi. Nhưng thị hiếu thì không biến đổi.

- Ông chủ của anh là người Pháp chứ?

- Thưa ông không, nhưng tôi chắc rằng ông đã du lịch nhiều ở Pháp.

- Chúng tôi rất mãn nguyện khi có sự giúp đỡ của anh. Chúng tôi không biết hết mọi chữ Pháp trên thực đơn.

- Nhưng thưa ông, đã có lời giải thích bằng tiếng Anh.

- Tôi tin rằng người ta cũng không hiểu cái tiếng Anh ấy nốt. Ngày mai thế nào chúng tôi cũng trở lại đấy nếu anh có thể dành riêng cũng cái bàn này cho chúng tôi, Athur ạ, đúng không nhỉ? Dường như tôi nghe ông chủ anh gọi anh như thế?

- Rất đúng, thưa ông. Tôi sẽ chú ý để dành riêng cho ông bà chỗ này.

- Và những lời góp ý của anh nữa, Athur. Bà Hogminster nói.

Anh lấy làm xúc động vì cách gọi anh bằng tên riêng và việc bà Hogminster mỉm cười với anh hết sức thân thiện. Anh chưa hề tưởng đến điều như thế trong suốt bao nhiêu năm phục vụ.

Athur vốn có thói quen kín đáo quan sát khách hàng chỉ vì để anh vẫn còn tiếp tục yêu thích nghề nghiệp bởi lẽ từ nay anh không thể đổi nghề được nữa. Anh cảm thấy già nua, chẳng có gì kích thích anh đổi thay. Anh biết giờ đây đã quá muộn "Nỗi nghiệt ngã của cái chết" đã chạm tới anh.

Thường khi vào buổi tối, lúc trở về nhà - nếu có thể gọi là nhà - một căn phòng có đồ đạc và một vòi nước tắm chung - anh lại hồi tưởng một số khách hàng. Những cặp vợ chồng ăn trưa với nhau dường như với vẻ lạnh nhạt và chực đợi khách mới xuất hiện với một vẻ khao khát nào đấy, lúc họ có điều buộc phải trao đổi với nhau. Những cặp tình nhân mới kết không thèm để ý gì đến mọi sự trên đời. Đôi khi lại là một thiếu phụ trẻ, đã có chồng (anh luôn luôn liếc nhìn bàn tay trái của họ) vẻ ưu tư, có một gã đàn ông nhiều tuổi hơn nàng đi kèm. Nàng nói nhỏ giọng hoặc im bặt lúc có người ngồi vào bàn kế bên - mà Athur Burton mong sao có thể để trống được, để cặp kia có thể giải quyết vấn đề riêng tư được thoải mái.

Đêm ấy lúc trở về nhà Athur nghĩ ngợi đến ông bà Hogminster. Anh tiếc đã không nói được nhiều hơn với họ. Anh cảm thấy rằng có thể tin cậy được họ cũng như mọi kẻ xa lạ gặp gỡ giữa phố. Ít ra anh cũng có thể nói bóng gió về nỗi nghiệt ngã day dứt ấy mà lâu nay vẫn chia cách anh với ông giám đốc, với ông đầu bếp, với những người phục vụ và với những tay rửa bát - Không gì hết ngoài một lời bóng gió, hẳn nhiên, vì anh chẳng muốn làm phiền ai.

Hôm sau, họ đến muộn nửa giờ. Ông giám đốc muốn dành bàn ấy cho khách khác cũng muốn ngồi nơi ấy. Ông bảo:

- Họ sẽ không đến đâu. Dẫu sao, họ cũng có thể chọn ba bàn còn lại.

- Nhưng họ lại ưa ngồi nơi đây và tôi đã hứa để dành cho họ - Athur bảo và còn nói thêm "Những người ấy rất tử tế".

Suýt nữa anh buộc phải thuận theo ý ông chủ nếu cặp Hogminster không đến kịp thời.

- Tôi rất lấy làm tiếc, Athur ạ, chúng tôi đến muộn quá. Anh xúc động rằng bà Hogminster vẫn còn nhớ tên riêng của anh.

- Nhằm vào ngày bán hàng đại hạ giá. Chúng tôi bị mê hoặc.

- "Bà ấy" bị mê hoặc, ông Hogminster chữa lại.

- Ô, ngày mai rồi đến lượt ông đấy thôi.

- Có những quán ăn gần những gian hàng bán đồ nam giới hơn đấy. Athur giải thích - Tôi có thể giới thiệu cho ông bà một quán đàng phố Jermyn.

- Ồ, nhưng chúng tôi lại thích quán bà Augustine này.

- "Quán ông Auguste" - Ông Hogminster chữa lại.

- Vả lại có anh góp ý cho chúng tôi rất tốt nữa, anh Athur ạ. Chúng tôi khỏi phải nghĩ ngợi gì cả.

Kẻ mang trong lòng một niềm bí mật là một người rất cô độc. Đối với Athur, có thể vén lên đầu chỉ một góc màn bí mật cũng đủ là một niềm yên ủi nhẹ lòng rồi.

- "Tôi rất tiếc, thưa bà, nhưng ngày mai tôi không còn làm việc ở đây nữa. Dẫu sao, tôi chắc rằng ông giám đốc...

- Không còn làm việc đây nữa? Tai họa chưa! Mà tại sao thế?

- Tôi phải vào bệnh viện.

- Athur, tôi hết sức buồn. Nhưng vì sao thế? Có điều gì quan trọng lắm sao?

- Thưa bà, để tổng kết về sức khỏe.

- Như thế là khôn đấy - ông Hogminster bảo. Tôi rất nhất trí với việc khám tổng kết.

- Ông ấy đã khám đến bốn hoặc sáu lần gì rồi đấy. Bà vợ nói thêm - Tôi cho rằng ông ấy ưa ý chuyện khám bệnh lắm, còn tôi, việc ấy luôn luôn làm tôi lo lắng. Tại sao người ta muốn khám anh vậy?

- Họ đã làm xét nghiệm rồi. Đến nay họ phải cho tôi biết kết quả.

- Ồ, tôi chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi, anh Athur.

- Thưa bà, tôi mãn nguyện rằng quán này đã làm quý vị vừa ý.

- Rất thỏa mãn. Và chính chúng tôi phải mang ơn anh về điều này.

- Tôi rất tiếc phải nói lời từ giã với ông bà. Athur Burton nói một cách thành thực.

- Ồ, không, chưa đâu. Thứ năm này chúng tôi sẽ trở lại. Chúng tôi sẽ nghe theo lời khuyên của anh và ngày mai chúng tôi sẽ dùng bữa tại quán gần gian hàng bán đồ nam giới, nhưng chúng tôi sẽ đến ăn bữa cuối cũng tại quán bà Augustine nầy.

- Tại "quán ông Auguste" - ông Hogminster chữa lại thêm một lần nữa, nhưng bà vợ lại chẳng để ý.

- Chúng tôi đáp máy bay đi New York vào thứ sáu này nhưng chúng tôi sẽ gặp lại anh vào thứ năm để nghe anh báo tình hình sức khỏe của anh. Tôi chắc sẽ tốt đẹp. Tôi cầu phúc cho anh, nhưng quả tình, thâm tâm tôi không lấy làm lo lắng gì cả.

- Cứ mỗi sáu tháng tôi lại đi khám tổng quát - ông Hogminster nhấn mạnh - Kết quả luôn luôn hoàn hảo.

- Thưa bà, bà có cần món gì đặc biệt vào thứ năm này không? Tôi có thể đề nghị với ông giám đốc...

- Không, không, chúng tôi sẽ dùng những món mà anh đề nghị với chúng tôi. Thứ năm nhé. Chúc may mắn, anh Athur.

***
Athur hiểu rằng chẳng ích gì mà hy vọng. Anh đã biết rõ điều ấy ngay cả trước khi xét nghiệm, bằng vào cái giọng lấp lững của bác sĩ. Anh tự hỏi liệu một người ngồi ở băng ghế bị cáo có thể đoán trước được những lời tuyên án trước lúc hội đồng thẩm phán rút lui để nghị án? Vào thuở hãy còn án tử hình - liệu nỗi hổ thẹn có lan tràn từ cả nhóm đến tư tưởng phán quyết mà bản án sắp công bố chăng? Tuy vậy, Athur cảm thấy một nỗi khinh khoái vì cuối cùng anh đã thú nhận được một nửa phần cái tội nghiệt ngã của anh với bà Hogminster và bà đã không xem nhẹ. Như anh vẫn yên trí, và không kể những ba hoa lạc quan về thuốc men mà thiên hạ không quên vây bọc anh, nếu lời tuyên án là cái chết, thì bà Hogminster liệu có sẽ là người không quen gặp gỡ giữa phố mà anh có thể thổ lộ mọi điều không? Họ sẽ không gặp lại nhau nữa. Thứ sáu này, bà sẽ đi New York. Họ cũng không có bạn bè quen chung để qua đó bà có thể biết được nỗi oan nghiệt của anh. Anh cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi trìu mến đối với bà.

Đêm ấy, Athur Burton mơ thấy bà Hogminster. Không phải là một giấc mơ tính dục, cũng không phải là giấc mơ tình ái, chỉ thuần túy là một giấc mơ bình thường trong ấy bà đóng một vai trò không quan trọng. Nhưng lúc tỉnh dậy, Athur cảm thấy một cảm giác yên ổn mà anh không hề biết từ mấy tháng nay. Như thể anh đã nói với bà và bà đã chọn đúng lời để bày tỏ thiện cảm với anh. Đôi lời ấy đã giúp Athur có can đảm đối đầu với những kẻ thù của anh đang sắp sửa bóc trần cái sự thật xấu hổ ấy.

Anh bận tâm suốt ngày mặc dù mãi đến 5 giờ chiều mới là giờ hẹn. Lúc anh đến, anh còn phải nán chờ nửa giờ nữa. Bác sĩ giải phẫu mời anh ngồi với vẻ thông cảm long trọng đến nỗi Athur Burton có thể hình dung khá chính xác bản tổng kết sắp đưa ra.

- "Phải giải phẫu khẩn cấp". Vâng, đúng là ung thư, nhưng ông không nên hoảng sợ vì cái tên bệnh. Tôi biết có nhiều trường hợp cũng nghiêm trọng như ông... Chữa kịp thời, có thể có nhiều hy vọng.

- Bác sĩ muốn giải phẫu vào lúc nào?

- Tôi khuyên ông nên nhập viện vào sáng mai và tôi sẽ mổ cho ông vào ngày mốt?

- Liệu tôi có thể nhập viện vào buổi chiều được không?- Ông hiểu cho, tôi có việc bận với người ta vào sáng mai. Anh không nghĩ đến công việc nhưng đến bà Hogminster. Hẳn bà ấy đợi tin anh.

- Tôi dứt khoát muốn rằng ông phải nằm yên trên giường một ngày tròn. Rồi... vào lúc 6 giờ tôi sẽ đến gặp ông với chuyên viên gây mê.

Tối hôm ấy nằm trong giường, Athur Burton tự nhủ các bác sĩ giải phẫu hiển nhiên không phải là những nhà tâm lý chút nào. Họ quá chú ý đến thân xác đến nỗi quên mất vấn đề tinh thần và họ chẳng có chút ý thức về điều mà âm sắc của giọng nói có thể gợi lên. Họ bảo: "Có thể còn nhiều hy vọng" nhưng người bệnh lại nghe: "Có rất ít hy vọng", hoặc "Chẳng có chút hy vọng nào!".

Không phải là anh sợ chết. Chẳng có ai thoát khỏi số phận chung ấy, vả lại con người trên hành tinh không phải bị ngự trị bởi nỗi sợ hãi. Athur Burton chỉ mong chia sẻ sự hiểu biết và niềm bí ẩn của mình với một kẻ không quen, mà họ sẽ không quá xúc động theo kiểu của một người vợ hoặc một đứa con, (Athur không có vợ cũng chẳng có con) mà biết bày tỏ rằng chính họ cũng đắm chìm trong một nỗi niềm bí mật oan nghiệt ấy bằng một lời lẽ nhiệt tình. "Tôi bị lên án".

Bà Hogminster là nhân vật ấy. Anh đã đọc thấy điều đó trong mắt bà. Ngày mai lúc bà hỏi anh về kết quả cuộc xét nghiệm, anh sẽ tìm ra cách để làm cho bà hiểu sự thật - mà không cần đến ngôn ngữ, vì điều ấy sẽ không hội nhập bà Hogminster với nỗi oan khiên của anh. "Bác sĩ bảo anh thế nào Athur? - Bà ta sẽ hỏi như thế. Anh sẽ trả lời ra sao? Không, không cần đến lời nói. Chỉ một cái nhún vai nhẹ cũng đủ diễn tả hết mọi thứ. "Thế là tiêu rồi! Cám ơn đã có nghĩ về tôi". Và cái nhìn mà bà ném trả lại cho anh với cùng một cách kín đáo ấy nói lên rằng bà biết chia sẻ nỗi bí ẩn của anh.

Anh sẽ không dấn bước một mình vào tương lai.

- Không cần giữ bàn nữa, ông giám đốc thông báo - Cặp vợ chồng người Mỹ ấy đã đến đây hôm qua. Và tôi đã tìm cho họ một bàn khác và họ rõ ràng rất ưa ý.

- Họ có đến đây hôm qua à?

- Vâng, quả tình họ có vẻ rất thích nơi này.

- Tôi cho rằng họ đã đi xem đồ bán hạ giá cho nam giới.

- Thế nữa kia, tôi không biết phải nói sao với anh. Nhưng tôi nghĩ dường như anh nói chuyện quá nhiều với khách hàng thì phải. Thường thì họ muốn được yên ổn với nhau.

Ông giám đốc vội bước ra cửa quán để đón ông và bà Hogminster. Họ đi về phía một bàn nhỏ riêng biệt trong góc phòng. Lúc đi ngang qua, bà Hogminster gật đầu chào Athur và mỉm cười với anh. Ngồi ở chỗ mới ấy, họ không thể thấy đường phố được nhưng cũng rất có thể như ông giám đốc đã nhắc nhở anh, họ muốn được yên ổn với nhau - cũng có thể họ muốn được ông giám đốc đích thân phục vụ họ.

Chỉ sau khi họ dùng bữa và trả tiền xong thì bà Hogminster mới gọi anh trong lúc anh đang đi vào bếp:

- Athur, đến đây nói chuyện với chúng tôi một chút.

Anh vui vẻ đến gần, tâm hồn tự dưng khinh khoái.

- Hôm qua chúng tôi đã không gặp anh Athur, nhưng ông giám đốc thật là nhã nhặn. Chúng tôi không muốn làm phiền ông ấy.

- Tôi mong rằng quý vị đã dùng bữa được ngon miệng, thưa bà.

- Ồ, lúc nào ở quán bà Augustine này cũng ngon.

- Ồ, "quán ông Auguste" chứ! Ông Hogminster chữa lại.

- Còn chuyện mua hàng hạ giá, anh có lý hết sức lúc khuyên chúng tôi đến phố Jermyn Street. Chồng tôi đã mua hai bộ pijama và ba..., anh thử tính xem, ba áo sơ mi lận!

- Tất nhiên là chính bà ấy chọn đấy! Ông Hogminster nói.

Athur Burton xin lỗi và đi vào bếp. Vấn đề anh vẫn lo ngại đã không xảy ra, nhưng ý tưởng ấy không làm nỗi niềm bí ẩn nặng trĩu của anh nhẹ bớt chút nào. Anh sẽ không nói gì với ông chủ. Chỉ giản dị, ngày mai anh sẽ không đi làm nữa. Đến một lúc nào đấy, bệnh viện sẽ cho họ biết anh đã chết hoặc đang còn sống.

Anh hết sức hạn chế xuất hiện trong phòng ăn, mặc dù anh rất khổ tâm khi thấy một người phục vụ khác đang săn sóc ông bà Hogminster và trao đổi lời với họ.

Nửa giờ sau, ông giám đốc đến nói chuyện với anh trong bếp. Ông cầm trong tay một lá thư.

- Bà Hogminster yêu cầu tôi đưa cái này lại cho anh. Họ đã ra phi trường rồi.

Athur nhét lá thư vào túi. Anh cảm thấy lòng hết sức nhẹ nhõm. Bà Hogminster có lý thật. Họ không thể nào trao đổi với nhau về bí mật của anh ở bên trong quán ăn trước mắt thiên hạ. Giờ đây, anh sẽ mang theo chứng cớ lân cảm mà bà Hogminster đến tận bệnh viện và anh có thể đọc nó lại vào ngày hôm sau ngay trước khi chuyên viên gây mê đến. Anh không còn cảm thấy cô độc. Ra phố, anh hẳn sẽ cầm tay một phụ nữ không quen. Hẳn nhiên, bà ấy sẽ không bao giờ được nghe trả lời cho câu hỏi: "Bác sĩ đã bảo gì với anh?" nhưng bà ấy đã gởi lại cho anh một lá thư và điều này mới đáng kể.

Trước lúc tắt đèn ở đầu giường trong bệnh viện, anh mở phong thư. Anh hết sức kinh ngạc lúc thấy thoạt tiên rơi ra ba tờ giấy bạc một bảng.

Bà Hogminster đã viết như sau: Athur thân mến, tôi nghĩ rằng phải viết cho anh đôi lời để cám ơn anh trước khi chúng tôi lên máy bay. Chúng tôi hết sức thỏa lòng về những lúc đến quán bà Augustine và chắc chắn một ngày kia chúng tôi sẽ trở lại. Còn về hàng đại hạ giá, chúng tôi đã mua chác cực kỳ thú vị. Anh hết sức có lý về chuyện phố Jermyn Street.

Cuối thư, ký tên Dolly Hogminster.

ĐỖ HỮU THẠNH dịch

(Báo Le Monde Diplomatique tháng 4/1989)
(TCSH49/05&6-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Salman Rushdie (1947), nhà văn và người viết tiểu luận, gốc Ấn, hiện sống tại Mỹ, là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây tiếng vang, như Những đứa con của nửa đêm, được trao giải Booker, năm 1981, và cả những tiểu thuyết gây tranh cãi như Những vần thơ của Satan, 1988. Văn phong Rushdie thâm trầm, khoáng lộng, hài hước và tươi mới.

  • FRANK O’CONNOR  

    Khi tôi tỉnh giấc, tôi nghe có tiếng mẹ ho ở nhà bếp. Mẹ bị ho đã nhiều ngày nhưng tôi không để ý. Chúng tôi sống ở Old Youghal Road, nơi mà vào lúc đó, có một con đường nhiều đồi dốc dẫn tới East Cork.


  • E. RUXACỐP (Nga)

  • ABDULRAZAK GURNAH    

    Tôi nghĩ anh ta đã nhìn thấy tôi đang tiến lại gần, nhưng vì lý do riêng nào đấy nên anh ta vẫn không có dấu hiệu gì.

  • Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới ln thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chng phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
    Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.

  • JENNIFER WALKUP   

    Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
    Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.

  • ELISABETH SILANCE BALLARD

    Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Truyện khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm.

  • Tác giả tên đầy đủ là Heinrich Theodor Böll (1917 - 1985). Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học. Tác phẩm và quan điểm chính trị của Böll thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…

  • KATE CHOPIN

    Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.

  • Nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sỹ, dịch giả Ấn Độ Rabindranath Tagore sinh năm 1861 tại Calcutta, Ấn Độ và mất năm 1941. Ông để lại một di sản văn học - nghệ thuật đồ sộ với hàng ngàn tác phẩm đủ các thể loại. Tagore còn là nhà yêu nước, đòi giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Ông được trao giải Nobel văn học năm 1913.

  • O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.

  • JASON HELMANDOLLAR

    Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.

  • TIMUR JONATHAN KARACA

    Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hi Nhà văn San Francisco.

  • Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
    Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.

  • ALBERT LAMORISSE (Pháp)

    Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.

  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.