Giấc mơ về những tao đàn, thi xã…

15:04 22/01/2021

THANH TÙNG   

Ý tưởng thành lập Hội Nghiên cứu và Phát triển Di sản Văn hóa Huế được nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết là đã có từ rất lâu mà nay mới thành hiện thực.

Ban chấp hành Hội ra mắt

Quá trình vận động thành lập vô cùng khó khăn, nhưng vì lòng yêu Huế nên ban vận động đã động viên nhau vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để hội đủ các điều kiện, được chính quyền cho phép thành lập và tổ chức đại hội đúng quy trình, đúng thời điểm thích hợp nhất.

Mục tiêu của việc thành lập Hội là để góp phần cùng các cơ quan chức năng nghiên cứu, giữ gìn và phát huy tốt nhất những giá trị di sản. Cũng có thể hiểu là những nghiên cứu bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Huế từ trước tới nay chưa tương xứng với tiềm năng vốn có vì nhiều lý do, trong đó có lý do về phương pháp và nguồn nhân lực. UBND tỉnh rất quan tâm và sớm ra quyết định cho phép thành lập Hội là minh chứng cho chủ trương xã hội hóa công tác nghiên cứu, bảo vệ, phát huy các giá trị di sản văn hóa Huế với mong muốn được cả xã hội đồng hành cùng Nhà nước trong lĩnh vực này.

Vì vậy Hội Nghiên cứu và Phát triển Di sản Văn hóa Huế đã và sẽ là nơi tập hợp những người yêu Huế, yêu di sản văn hóa Huế và các chuyên gia hoạt động sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, phát triển di sản thành tài sản, tham gia phản biện khoa học các công trình nghiên cứu phát triển di sản văn hóa Huế, góp phần làm cho Huế ngày càng đẹp hơn và luôn giữ được những giá trị văn hóa đặc trưng vốn có trong lòng nhân dân Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế.

Trong dự thảo điều lệ và phương hướng hoạt động mọi người có thể thấy được Hội có tham vọng tìm kiếm các giải pháp nhằm bảo tồn thích nghi và đưa ra các ý tưởng biến các giá trị văn hóa Huế thành sản phẩm có giá trị thực tiễn trong các hoạt động dịch vụ - du lịch nhằm nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho người dân. Đó là những định hướng rất tích cực và rất thực tế.

Ông Phan Ngọc Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh, cũng đã nhấn mạnh trong phát biểu chúc mừng đại hội: Lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ ai cũng trăn trở tìm hướng để phát triển đô thị di sản. Huế chưa phát triển như mong đợi là dấu hỏi lớn cho quốc gia, quốc tế chứ không riêng gì người Huế. Đã đến lúc chúng ta phải suy nghĩ, đánh giá lại những bất cập, hạn chế cũng như các rào cản trong quá khứ, khách quan nhìn nhận và tìm cách phát triển Huế xứng đáng với vai trò, vị thế. Huế không thể phát triển theo kiểu nhảy cóc mà phải dựa trên nền tảng di sản. Mô hình đô thị Thừa Thiên Huế trong tương lai là mô hình đô thị di sản văn hóa, thân thiện môi trường, lấy du lịch làm kinh tế mũi nhọn, y tế, giáo dục làm nền tảng và công nghệ làm mũi đột phá. Đây là chiến lược phát triển phù hợp trong giai đoạn tới nhằm quy tụ trí tuệ của người Huế và quốc gia, quốc tế để tham gia xây dựng phát triển Huế. Phải làm sao để nâng cao giá trị vùng đất và con người Huế? Làm sao để những người yêu Huế, yêu giá trị văn hóa di sản của Huế được cùng chung tay góp sức xây dựng phát triển Huế trong tương lai! Mong rằng các thành viên của Hội cùng chung một ý chí trong việc phát huy giá trị di sản hướng đến góp phần thăng hoa giá trị văn hóa Huế và người Huế được hưởng thụ tốt nhất các giá trị này.

Cá nhân người chấp bút bài viết ngắn này rất tâm đắc với những Hội xã hội tự nguyện, tự chủ và tự trang trong mọi hoạt động, tồn tại không dựa vào ngân sách Nhà nước mà dựa vào sự cống hiến của hội viên và đem lại những hiệu quả rất thiết thực. Chẳng phải là ở đất thần kinh này từ đầu thế kỉ XX đã từng có Hội những người bạn Cố đô, do Linh mục Cadière sáng lập và đã xuất bản tập san BAVH ra liên tục từ năm 1914 cho đến năm 1944. Linh mục Cadière đã cộng tác thường xuyên với nhiều nhà văn hóa ở Hà Nội và ở Huế, trong đó có nhiều linh mục, các quan chức người Pháp, quan chức Nam triều, các bậc thức giả người Việt đương thời như các cụ Thượng thư Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả; các hoạ sĩ bậc thầy Lê Văn Miến, Tôn Thất Sa; các học giả Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Tiến Lãng, Đào Duy Anh…

Trước đó Huế cũng đã có Mạc Vân thi xã nổi tiếng do ông Hoàng thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm thành lập vào năm 1850. Thi xã Mặc Vân được đặt ngay tại Kí Thưởng Viên (Phủ Tùng Thiện Vương). Ngoài các tài hoa thi tứ tại kinh đô còn có nhiều văn nhân thi sĩ đã nổi tiếng của cả nước tham gia như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Phan Thanh Giản… Thập niên 1930 có Hương Bình thi xã do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị sáng lập và chủ súy. Hương Bình thi xã không chỉ là diễn đàn xướng họa văn thơ mà còn có cả một không gian sinh hoạt của Ca Huế và sân khấu Tuồng.

Tôi có một giấc mơ là Huế sẽ kế thừa những tinh hoa, truyền thống hoạt động nghệ thuật để có những “tao đàn”, những “thi xã”, có hội những người bạn cố đô với những dấu ấn mới bắt nhịp cùng sự phát triển của cả tỉnh, đưa tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương như tinh thần Nghị quyết 54 của Bộ Chính trị, dựa trên nền tảng di sản văn hóa vốn có.

T.T  
(SHSDB39/12-2020)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)