Đó là ngày diễn ra cuộc hội nghị văn nghệ toàn tỉnh ở Thôn 2 làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ ngày nay) huyện Phú Lộc vào khoảng cuối năm (tháng 10 dương lịch). Rất tiếc cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định được ngày tháng cụ thể.
Thời gian trôi qua vùn vụt như nước chảy chim bay. Chứng nhân có thể người còn người mất, kỷ niệm có thể cái nhớ cái quên. Nhưng sự nghiệp, tình người - đặc biệt là tình đồng nghiệp văn nghệ - thì mãi còn ghi, mãi còn đọng lại. Tháng 4-1950, là một thanh niên mới lớn, 18 tuổi nhưng tôi đã có nhiều năm tham gia lực lượng du kích, quân đội; được Liên khu điều từ Hà Tĩnh vào chiến trường Bình Trị Thiên. Đến chiến khu Hòa Mỹ, tôi và một số anh em nhận lệnh về Trung đoàn 95 ở ban tham mưu Trung đoàn, đóng quân ở Phong Chương, Phong Điền. Mấy ngày sau khi được phân công vừa làm nhân viên văn thư vừa kiêm liên lạc chiến, tôi được tiếp cận ngay với tình hình, tin tức các nơi dội về lần lượt. Một tốp anh chị em văn nghệ (chủ yếu là các anh chị văn công) đi theo bộ đội xuất kích tham dự các trận đánh lô cốt giặc bằng một loại vũ khí mới ở Việt Bắc của ta chuyển vào. Đó là loại DKZ đạn lõm. Không biết vì lý do gì đó mà khi bắn ra, quả nổ ngon lành, lô cốt Pháp đổ vỡ tan tành chôn vùi xác giặc trong đó; quả thì bay tung tóe như pháo bông, đẹp thì có đẹp, nhưng chả làm gì được ai; đã thế lại bị giặc đánh trả, súng máy từ lô cốt chúng tuôn ra xối xả; bộ đội ta rút lui rất vất vả, anh chị em văn nghệ cũng được một phen hú vía. Chuyện “thử kêu bắn tịt” là như vậy! Rồi ở Vĩnh Linh, Cam Lộ… nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Minh Huệ ở Khu 4 vào, cùng các anh tại chỗ như Vĩnh Mai, Lương An, Dương Tường… đang thâm nhập xuống tận các tiểu đội, các tổ “tam tam chế” (3 người) để làm thơ, viết văn… Tờ Vệ quốc quân của quân đội ta bấy giờ in trên giấy nâu, xấu lắm nhưng rất quí hiếm, đã đến tay bộ đội và nhân dân đều đặn. Tôi đọc trên đó lần đầu tiên bài thơ của Minh Huệ nhan đề là “Cơm thơm bếp lửa”. Lâu quá rồi không nhớ được câu nào, chỉ không quên cái đầu đề và nội dung bài thơ. Minh Huệ miêu tả cái không khí các mẹ các chị nấu cơm ngay tại nơi phía sau tiếng súng, chờ bộ đội ta đánh trận phía trước trở về. Lại nữa, tờ báo “Giết Giặc” của Thừa Thiên, các tờ tin tờ báo của Liên khu (tôi quên mất tên) bao giờ cũng có đăng ghi chép, phóng sự, thơ ca dao, vè, nhạc… bên cạnh những bài vở khác, tin tức khác của quân đội ta, nhân dân ta vừa sản xuất vừa chiến đấu chống giặc. Không kể các văn nghệ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ ở Khu, ở Việt Bắc vào, chỉ nói riêng ở Thừa Thiên đã hiện diện các anh như Phan Nhân, Hoàng Tuấn Nhã, Trịnh Xuân An, Hoàng Liên, Thái Quang Ngoạn, Lê Trọng Sâm, Trần Xuân Dục v.v… làm thơ, viết văn, viết kịch, nhạc. Ở các đoàn các đội văn công có Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Hồng, Ngọc Lan, Mặc Hy, Vĩnh Cường… viết và diễn nhạc… Ở các đơn vị bộ đội chính quy và địa phương trong tỉnh có Phùng Quán, Hồ Vi, Văn Tôn (tức Hải Bằng), Viễn Tín, Trần Công Tấn, Nguyễn Ngọc Liễn v.v… Đông đảo anh chị em trong đội ngũ văn nghệ tùy theo sức lực và tài năng riêng của mình, ai ai cũng nô nức sáng tác, hoạt động tuyên truyền, kể cả tự mình đọc thơ, ngâm thơ, đàn hát, tấu vè… phục vụ nhân dân, phục vụ bộ đội. Những tác phẩm viết về Thừa Thiên thời kỳ này như “Đánh trận giặc lúa”, “Ánh mắt”, “Gặp gỡ”, “Một chuyện trong chiến tranh” của Bùi Hiển; “Bình Trị Thiên khói lửa” của Nguyễn Văn Thương, “Trận Thanh Hương” của Nguyễn Khắc Thứ, “Lời quê” của Hồ Vi, rồi “Bài ca binh vận - Gửi người chồng bên kia chiến tuyến”, “Đồi 18” của nhạc sĩ Nguyễn Hồng, cho đến giờ đây sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn nằm trong lòng nhiều người đọc, người nghe không chỉ ở Thừa Thiên Huế chúng ta mà thôi! Mấy chục năm sau, tôi gặp một người bạn văn nghệ là Nguyễn Ngọc Liễn. Hồi đó, tôi và Liễn ở hai đơn vị khác nhau (Liễn ở Trường Tiểu đội trưởng Trung đoàn 101) nhưng thường chơi với nhau thân thiết như hai anh em. Liễn thanh mảnh như một thiếu nữ mới lớn, tính tình lại thuần hậu, nói năng nhỏ nhẻ. Vì vậy, chẳng biết tuổi tác của nhau ai lớn ai nhỏ nhưng Liễn cứ tôn tôi làm anh; tôi cứ hồn nhiên gọi Liễn là em, xem như em nuôi của mình. (Sau này mới biết thật ra Liễn lớn hơn tôi một tuổi; anh Tân Mùi còn tôi Nhâm Thân). Trong một trại sáng tác do Hội ta và tạp chí Sông Hương tổ chức tại Huế, chúng tôi ngồi ôn lại cái thuở mười tám đôi mươi ở trên mảnh đất phía Bắc Thừa Thiên với sông núi đẹp mê hồn và tâm hồn con người thì nồng đượm tình cảm quê hương và bè bạn. Liễn kể lại đôi nét anh còn nhớ về Phân hội Thừa Thiên trong những ngày hội nghị thành lập ở Kỉnh nhì (Thôn 2) Mỹ Lợi năm nào. Bấy giờ Liễn là một cây văn nghệ ở đơn vị, làm thơ, bình văn rất giỏi cả bằng tiếng Pháp, rất sành. Liễn người Quảng Bình nhưng sinh ra và lớn lên, học hành ở Huế trước ngày gia nhập Vệ quốc quân. Liễn hỏi tôi sao ngày ấy không đi họp văn nghệ. Tôi nói đã được cử đi rồi, vừa để làm người dẫn đường cho một số các anh ở Ban chính trị Trung đoàn (các anh làm văn nghệ tuyên truyền) rồi, (Mỹ Lợi là quê nhà của tôi), ngày mai lên đường thì chiều hôm trước tôi được lệnh hỏa tốc dẫn hai hàng binh Pháp (trận đánh ga Hiền Sĩ) lên Dương Hòa để liên lạc phân khu đưa họ ra Việt Bắc; thế là tôi đành bị lỡ cuộc họp. Liễn còn hỏi: các anh trong Ban chấp hành phân hội hồi đó giờ có ai còn, những Phan Nhân, Hoàng Liên, Trịnh Xuân An, Hoàng Tuấn Nhã…? Tôi nói cũng đã mất cả rồi. Anh còn cho biết là hồi đó, hội nghị bầu BCH đến chín, mười một người chi đó… do Trịnh Xuân An đứng đầu, gọi là thư ký (như chủ tịch Hội bây giờ); trong lúc giờ đây chỉ riêng Hội Nhà văn Việt Nam ta nhiều khóa bầu bán khó khăn đến mức chỉ trúng có 5 người 6 người thôi! Nói xong, anh cười ha hả… Một thời đã qua, một thời để nhớ - Người đời thường nói như vậy. Vế đầu thì tất nhiên - thời nào rồi cũng phải qua đi. Còn vế tiếp theo, hơn ai hết, theo thiển ý người viết bài này, những văn nghệ sĩ chúng ta nên thường xuyên suy ngẫm. “Nhớ” chỉ để nhớ, tựu trung chẳng có ý nghĩa gì. Nhớ, để mà tiếp bước, mà hành động, mà tô điểm thêm những gì mang tên là “cái đẹp” của nó. Chắc chắn rằng, Hội VHNT Thừa Thiên Huế chúng ta trong nhiệm kỳ sắp tới mà Đại hội lần thứ XI sắp diễn ra, sẽ mang một tầm vóc mới, biểu hiện cho một sự bừng nở mới về truyền thống, bản sắc và nhân văn. 8-2010 H.N (258/8-10) |
Bút ký
Bút ký
Đi dọc những triền đê mùa xuân thấy ngọt ngào hương cỏ mật. Chợt gặp chiều phiêu linh trên dòng sông Sò. Con sông vươn tay một cái là chạm ngay vào biển. Khói ráng lênh đênh đuổi nhau trên cửa Hà Lạn.
Buổi sáng sớm cuối năm, tôi chạy xe qua đường Chi Lăng - phố cổ Gia Hội và bất chợt gặp đôi triêng gióng của một mệ già đang đi ngược đường. Tôi định dừng lại bấm một chiếc ảnh, nhưng đường đang đông người nên thôi.
Nhiều người đi xa lâu ngày khi nhớ về thành phố thường thắc tha thắc thỏm, phố bây chừ còn những lối xưa, người bây chừ còn giữ những nếp xưa, có còn những nét mềm mại hiền ngoan đã từng níu biết bao ánh nhìn mỗi khi có một ai phải dứt áo xa quê.
Sông Hương chảy xuyên suốt vào lòng đô thị Huế. Những phù sa, trầm trích sông để lại, tạo nên một Cố đô đầy kiêu sa, hiền từ, thư thả giữa trời mây.
VĨNH QUYỀN
Bút ký
LỮ MAI
Bút ký
Như lời hẹn hò từ trước với bà con - “Nhớ lên bản mùa táo mèo nở rộ” - chúng tôi rủ nhau đi về hướng núi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tùy bút
Cái không khí Tết đến, xuân về đã kề cận thật rồi, chợt nghe ai đó đọc câu thơ cũ: “Một chén xuân đưa vạn dặm tình/ Cỏ thơm đứt ruột nát lòng oanh.
NGUYỄN HỮU TẤN
Bút ký
Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
(Hò giã gạo Huế)
HOÀNG ĐĂNG KHOA
Tùy bút
HƯƠNG GIANG
Ghi chép
TRẦN BẠCH DIỆP
Ghi chép
LÊ HIẾU ÁNH
Ký
VÕ MẠNH LẬP
Ghi chép
Sau trận Ca-mác, đồn Lai Hà được dựng lên. Làng mạc san sát bây giờ dân bị gom lại, nhà cửa, bờ tre, cây cối bị san bằng không còn một cành cây, ngọn cỏ.
NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
Nói đến thú chơi hoa cảnh, người ta thường nhớ ngay tới những vườn đào Nhật Tân, những vườn lan Đà Lạt, chim cảnh trăm giống Sài Gòn, cá vàng ngũ sắc Hải Phòng. Ít ai nghĩ rằng Huế cũng là đất chơi hoa. Mặc dù cái tên Cố đô Huế đã rất quen, rất thân thuộc với mỗi người.
NGUYỄN HỮU TẤN
Nước non còn đó muôn đời
Ai chia được nước, ai dời được non
("Lý tình tang" Huế)
NGUYỄN KINH BẮC
"...Mình biết, mỗi người đều có một Huế riêng cho mình. Riêng với mình, Huế bắt đầu là ở câu thơ này:
"Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai".
NGUYỄN NGỌC LỢI
Cả tuần nay mới thực sự đông. Tinh mơ tốc chăn, mở cổng ra đường, cái rét buôn buốt phả vào nhưng nhức tê tê nơi da mặt.
TRƯƠNG BÁ CHU UYÊN
Tùy bút
Mai vàng có ở nhiều nơi, nhất là từ Huế trở vào miền Nam, cứ đến mùa xuân hoa mai nở rộ, khoe sắc. Hoa mai tượng trưng cho người quân tử, mang cốt cách thanh cao, khoáng đạt.