Tuy khá bận rộn, nhưng Giám đốc NHCSXH tỉnh Trương Công Lân vẫn dành thời gian Đoàn cán bộ truyền thông ở mãi tận Hà Nội, thực hiện một chuyến đi và viết về huyện A Lưới, miền đất biên giới bên dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Đường 12 ngày ấy vốn trống vắng, gập ghềnh bùn đất, bây giờ là Quốc lộ 49, mà theo nhiều người gọi đó là “con đường xanh” có chiều dài chừng 80km, khởi nguồn từ cửa biển Thuận An, ngược qua các huyện Phong Điền, Hương Trà, rồi đến A Lưới, nhập vào đường Hồ Chí Minh huyền thoại để ra Quảng Trị, vào Quảng Nam, sang nước bạn Lào. Dẫu chưa hiện đại như những đại lộ ở đồng bằng nhưng so với 15 năm trước, Quốc lộ 49 đã khác rất nhiều: con đường được mở rộng, trải nhựa phẳng lỳ xuyên giữa những cánh rừng thông, keo, những vườn cao su, cà phê bạt ngàn. Có những lúc, con đường lại băng qua các làng xóm bình yên của người Pa Kô, Cà Tu, Tà Ôi… với những nương ngô, ruộng lúa xanh tốt. Chính vì vậy, trong suốt dọc hành trình, ai nấy trong đoàn chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước những gì luôn hiện ra trước mắt, nhất là hai nữ phóng viên thuộc thế hệ 8x tươi tắn là Hồng Anh (Báo Nhân dân) và Lương Xuân (Thông tin NHCSXH) lần đầu đi trên con đường này tới miền biên giới Việt Lào đều muốn dừng xe, nhao ra ngoài để vội vã giương máy ảnh “chộp” những cảnh đẹp đến quyến rũ và lắng nghe tiếng rì rào của gió, tiếng thở gấp gáp của cỏ cây hoa dã quỳ.
Giờ đây, chúng tôi đang có mặt tại miền đất A Lưới, một huyện miền núi giáp biên có tổng diện tích tự nhiên là 1.700km2 nhưng có đến 91km đường vành đai biên giới. Huyện có 21 xã, thị trấn đều thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, 11.129 hộ với 5 dân tộc Pa Kô, Cà Tu, Tà Ôi, Kinh và Pa Hi, trong đó dân tộc Pa Kô chiếm 85% dân số. Miền biên giới đất rộng, người không đông, nhưng cuộc sống của họ trước đây chỉ trông vào việc phát rừng làm nương rẫy, bởi ruộng nước ít, vốn liếng thiếu trầm trọng, trình độ sản xuất lạc hậu, vì thế tỷ lệ hộ nghèo ở thời điểm năm 2008 khá cao 40,7%.
Song mới đây, với sự nỗ lực vươn lên của lãnh đạo và nhân dân, nhiều xã của huyện A Lưới như A Đớt, A Roàng, Hồng Thủy… được đưa ra khỏi danh sách xã đặc biệt khó khăn. Nhất là, từ khi được các chương trình, dự án của Nhà nước, trong đó đáng kể đến nguồn vốn tín dụng ưu đãi của NHCSXH hỗ trợ đầu tư, vùng đất này như trở mình, được đánh thức, đem lại mùa màng xanh tươi đến ngút tầm mắt dọc Quốc lộ 49 về tới tận chân cầu thang nhà sàn của người dân. Hỏi vì sao vùng núi cao A Lưới thoát nghèo nhanh, Phó Chủ tịch UBND huyện A Lưới kiêm Trưởng Ban đại diện HĐQT NHCSXH huyện được hưởng lợi trực tiếp từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi - ông Nguyễn Mạnh Hùng không ngại ngần đáp: Bà con các dân tộc trong huyện bây giờ đang dần thoát nghèo và vươn lên làm giàu, thực tế đã có không ít hộ đồng bào Pa Cô, Tà Ôi đã trở thành triệu phú nhờ canh tác nông, lâm nghiệp. Nguyên nhân làm nên diệu kỳ trên vùng cao A Lưới thì có nhiều nhưng một nguyên nhân không thể phủ nhận, đó là NHCSXH đã tập trung nguồn vốn ưu đãi gần 130 tỷ đồng ưu tiên đầu tư cho các hộ nghèo, cận nghèo và gia đình đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó, cán bộ tín dụng chính sách còn không quản ngại khó khăn vất vả, đêm ngày bám địa bàn, tận tình hướng dẫn đồng bào bản địa sử dụng vốn vay ưu đãi vào cấy lúa nước, trồng cao su, làm nghề dệt zèng truyền thống.
Mấy năm nay, nhờ vay vốn ưu đãi dễ dàng, kịp thời lại thêm sự bàn bạc, đổi thay cách làm, miền biên viễn A Lưới đã có thêm những cánh rừng kinh tế trên diện tích 1.792ha cây keo, thông, tràm, xà cừ mà xưa chỉ là rừng gỗ tạp; các giống ngô lai, lúa nước chất lượng tốt được đưa vào sản xuất đại trà trên đồng ruộng. Cùng đó, dựa vào nguồn vốn chính sách và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, A Lưới đã phát triển cây cao su tiểu điền lên 1.309ha, đưa giống cà phê catimon năng suất cao thay thế cho giống lúa cũ thoái hóa được 747ha. Riêng ở xã A Roàng, giáp với nước bạn Lào trong 6 năm qua đã được NHCSXH huyện quan tâm hỗ trợ lãi suất và kịp thời cho vay gần 4 tỷ đồng để tham gia dự án trồng cao su tiểu điền. Kỳ lạ thay, nguồn vốn ưu đãi như “bà đỡ mát tay” làm cho cây cao su cứ vượt nắng gió, giá rét mà khép tán, cao to bằng bắp đùi để đến mùa xuân này cho khai thác mủ, thứ vàng trắng trên Trường Sơn. Phó Chủ tịch xã A Roàng, ông Viên Xuân Danh cười bảo: Cứ đà này những đám nương ở khu vực biên giới nơi đây chẳng mấy chốc sẽ phủ kín bằng màu xanh của cao su. Tất cả là nhờ sự tác động của nguồn vốn ưu đãi từ NHCSXH huyện A Lưới đấy.
Tôi hỏi ông Đoàn Thanh Chương - Giám đốc NHCSXH huyện A Lưới, năm 2014 này, ngân hàng có những giải pháp gì mới giúp dân nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số? Ông Chương cho biết: Nếu chiếu theo yêu cầu thì nhân dân rất cần nhiều vốn ưu đãi, trong khi đó số lượng cán bộ tín dụng chính sách vẫn chỉ có 10 người, nhưng chúng tôi tiếp tục tăng cường phối kết hợp với các hội, đoàn thể, với 244 Tổ tiết kiệm và vay vốn trên địa bàn chuyển tải nhanh chóng quản lý chặt chẽ nguồn vốn ưu đãi đến từng đối tượng được thụ hưởng, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác tín dụng chính sách để cùng các ban, ngành xây dựng, định hình các ngành nghề và dự án có chọn lọc và làm ăn có hiệu quả, tích cực tuyên truyền vận động bà con nhận thức được việc vay vốn ưu đãi, sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả kinh tế cụ thể.
Để mắt thấy tai nghe, ông Chương dẫn chúng tôi xuống xã A Đớt chứng kiến phiên giao dịch đầu năm mới giữa Tổ giao dịch lưu động với khách hàng. Không khí thật đông vui như ngày hội làng. Công việc cho vay, thu nợ, nộp lãi cũng tất bật nhưng gương mặt từ cán bộ NHCSXH đến đồng bào dân tộc trên miền biên viễn này vẫn ngời ngợi ánh lên niềm tự tin.
Chủ tịch Hội Nông dân xã A Đớt, người dân tộc Tà Ôi, ông Hồ Thanh Đài phấn chấn nói: “Vùng sâu chúng tôi bước vào năm mới dồn dập có tin vui, đó là nhiều gia đình khai thác được hơn 100ha rừng nguyên liệu giấy, vậy là có nguồn thu nhập để trả nợ đầy đủ, đúng kỳ hạn cho ngân hàng, lại thêm tích lũy nâng cao đời sống, mở rộng sản xuất, rồi 28 hộ cận nghèo trong xã hôm nay được NHCSXH giải ngân đợt 1, mỗi người được vay 30 triệu đồng với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế, làm giàu”.
Vui quá chứ còn gì! Vì thế thay mặt bà con nông dân, ông Đài giữ cả Đoàn công tác ở lại uống rượu đóa - một loại rượu của dân tộc được lấy từ ngọn một loài cây mọc bên dãy Trường Sơn có thân hình giống cây dừa nước, ở vùng sông nước Nam Bộ. Chén rượu cuối năm có hương vị lá cây rừng khi uống vào, tôi cảm nhận thấy nó ngòn ngọt, nồng nồng, man mát như có tình người, tình đất nồng nàn thương yêu.
Rượu đóa, lần đầu tiên tôi uống sao mà ngon đến thế. Uống mà không say, diệu kỳ thay miền biên giới A Lưới!.
Theo Du Xuân - Cảnh Tú (Nguồn: UBND huyện A Lưới)
Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.
Ít người biết tượng “ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu bên bờ sông Hương (Huế) lại có liên quan đến nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.
Chiều ngày 19/10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu hai cuốn sách “Em còn gì sau chiến tranh” và “Biến cố 182010” của nhà văn Hà Khánh Linh.
Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.
Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.
Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể.
Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.
Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.
Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.
Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế.
Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).
Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.
Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học
Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.
Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.
Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.
Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...
Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.
Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.