Đêm đăng quang của kèn bassoon

15:40 09/09/2009
NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

Ảnh: yeuamnhac.com

Sau khúc khởi nhạc mở đầu của “Người điên khổng lồ” LaV. Beethoven, chương trình hoà nhạc đúng là đêm đăng quang của kèn Bassoon tại Việt Nam.

Kèn Bassoon là một nhạc khí trong bộ gỗ, là một thành viên cố định của dàn nhạc giao hưởng dù ở bất cứ biên chế lớn hay nhỏ. Kèn Bassoon có kích thước như một đoạn cây giang (chẻ lạt gói bánh chưng) và có một cần thổi hơi gắn vào như cần uống rượu cần của đồng bào thiểu số. Kèn Bassoon tiếng Pháp là Basson, tiếng Đức là Fagott, tiếng Ý là Faggotto và tiếng Nga là Phagốt. Thật bất ngờ nhạc khí kèn Bassoon trông tương tự như vũ khí B40, B41 khiến nhà thơ Anh Ngọc đã từng thốt lên câu thơ: “Và khẩu B40 như chiếc kèn Phagốt - Tấu lên giai điệu tấn công”. Bassoon là một loại kèn gỗ khó học. Bởi vậy, để nghệ sĩ Bassoon có thể “tấu lên” như câu thơ trên, đó là một cuộc khổ luyện của tài năng.

Ngay từ khi Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam ra đời (6/8/1959), số các nghệ sĩ kèn Basoon được mời về từ các dàn nhạc Đoàn Văn công cũng rất hiếm. Đó là nghệ sĩ Phạm Huyến (Đoàn ca múa nhân dân Trung ương), Vũ Thuỷ (Dàn nhạc xưởng phim Việt Nam), Trịnh Quang Thư, Bùi Đăng Tiến, Nguyễn Đức Hồng và Nguyễn Công Minh (Contre bassoon) vừa tốt nghiệp Trường Âm nhạc Việt Nam. Đến khi nghệ sĩ Nguyễn Phúc Linh đang tu nghiệp kèn Basoon tại nhạc viện F.Liszt - tại Budapest - Hongrie đoạt giải nhì trong Concert Quốc gia Hongrie nhân 100 năm thành lập nhạc viện F.Liszt (1975), kèn Bassoon mới được biết đến như một nhạc khí độc tấu tại Việt Nam. Nguyễn Phúc Linh về nước 1977 và đến 1980 về giảng dạy tại Nhạc viện Hà Nội. Anh vừa tu nghiệp để nâng cao trình độ của mình vừa đào tạo ra các nghệ sĩ Bassoon trẻ, trong đó, nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Trí Dũng - nghệ sĩ độc tấu kèn Bassoon thuộc Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam. Ở chương trình hoà nhạc này, Nguyễn Trí Dũng đã làm đăng quang cây kèn Bassoon ở Việt Nam khi cùng dàn nhạc thể hiện Concerto cung Pha trưởng viết cho Bassoon và dàn nhạc của C.M.Weber - nhà soạn nhạc người Đức (1786 - 1826) thuộc trường phái lãng mạn. Vừa là nhà soạn nhạc, nhà chỉ huy, nghệ sĩ độc tấu piano nổi tiếng, C.M.Weber còn là nhà văn và họa sĩ xuất sắc. Những thành tố tài năng tập trung nơi ông đã hướng ông tới một tri kỷ là giáo chủ Phogle với một tư tưởng thẩm mỹ hoà hợp văn minh đông - tây và đề cao nghệ thuật dân gian. Chính ảnh hưởng này đã khiến cho C.M.Weber viết Concert cho Bassoon và dàn nhạc độc đáo này. Sử dụng âm thanh kịch tính, châm biếm, hài hước và chất du mục của tiếng kèn này, nhà soạn nhạc lãng mạn C.M.Weber len lỏi giữa những âm sắc của dàn nhạc trong ba chương nhạc với những nhịp độ và cấu trúc khác nhau.

Nguyễn Trí Dũng đang chín. Nhiều người đã nghe “Dũng bột” (tên gọi đùa của Dũng ở Dàn nhạc GHVN) trình tấu không ít lần, nhưng cuộc đăng quang này tại Nhà hát lớn Hà Nội phải thừa nhận là ngoạn mục. Dưới đũa chỉ huy biểu cảm của Colin Metter, Nguyễn Trí Dũng đã làm chủ được tốc độ cũng như hơi kèn chuyển dịch giữa những âm vực răng cưa mà C.M.Weber đã tạo ra cho giai điệu độc tấu. Sau phần mở đầu nhanh, phần chậm nối tiếp đã được Dũng thể hiện đến “mọng lên” trong cảm xúc. Thật hiếm khi nghe tiếng Bassoon quyến rũ đến nao lòng trong một không gian âm thanh tráng lệ. Concerto bừng thức trong nhịp rondo nhanh như vượt thoát ra khỏi lý trí.

Nếu ngày 29.5.1993, mở đầu tác phẩm “Mùa xuân thần thánh” của I.Stravinsky là quãng âm lạ tai của kèn bassoon gây tranh cãi và mở ra chủ nghĩa hiện đại trong âm nhạc, thì trước đấy một thế kỷ, Concerto cho Bassoon và dàn nhạc của C.M.Wber đã đưa chủ nghĩa lãng mạn tới cực điểm ở âm nhạc Đức. Nguyễn Trí Dũng đã phục sinh tinh thần C.M.Weber - tác giả nhạc kịch “Mũi tên thần” bất hủ - trong tiếng kèn Bassoon đăng quang cùng dàn nhạc và tác phẩm. Sau tiếng vỗ tay vang động nhà hát, Nguyễn Trí Dũng đã nhận một cái bắt tay thật chặt của thầy Phúc Linh.

N.T.K
(187/09-04)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Âm nhạc giao hưởng điện tử đang trở thành “món ăn” tinh thần mới lạ ở Việt Nam. Tiếc là ý tưởng âm nhạc độc đáo này mới chỉ được đón nhận một cách dè dặt ở Huế.

  • Ngày 4/3, dàn hợp xướng Hợp ca Quê hương của cộng đồng người Việt Nam tại Pháp đã tham gia liên hoan hợp xướng quốc tế Paris và có màn trình diễn xuất sắc, ấn tượng, để lại dấu ấn đậm nét Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế.

  • Tối 4/3, tại khu vực vườn hoa Tượng đài Lý Thái Tổ, bên hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), ​ một trong năm dàn nhạc giao hưởng lớn của thế giới đã có buổi hòa nhạc, đưa đỉnh cao âm nhạc thế giới đến công chúng Việt Nam.

  • Bộ VH-TT-DL vừa công bố danh sách tác giả, tác phẩm được Chủ tịch nước quyết định trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017.

  • Nhiều người đã gọi nhà soạn nhạc 11 tuổi Alma Deutsher là Mozart hiện đại khi vở opera Cinderella của cô bé lần đầu công diễn tại Vienna và nhận được sự tán thưởng đặc biệt của khán giả.

  • Với sáng kiến của những người yêu nhạc cổ điển cách đây 127 năm, ngôi nhà nơi Beethoven sinh ra vẫn còn trụ vững và trở thành bảo tàng về nhà soạn nhạc thiên tài.

  • Theo các nhà nghiên cứu, hội chứng Tourette gây ra ở Mozart những hành vi khó hiểu nhưng đồng thời đó cũng có thể là lời giải thích hợp lý cho các ý tưởng âm nhạc vô tận của nhạc sĩ thiên tài.

  • So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nền nghệ thuật âm nhạc Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.

  • Trong khi gần nửa số vở opera của Vivaldi hoàn toàn biệt tăm tích thì "Orlando Furioso" lại tìm được đến hai bản thảo.

  • Khi Wolfgang mới lẫm chẫm biết đi, cô bé Nannerl bốn tuổi rưỡi đã là thần tượng của em mình. Theo nhà nghiên cứu Maynard Solomon, “lên ba tuổi, Mozart đã hứng thú học nhạc vì trông thấy cha dạy đàn cho chị; cậu bé muốn được như chị."

  • VĨNH PHÚC

    Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929 - 2001) sinh tại Triệu Phong, Quảng Trị; nhưng cũng như Duy Khánh, Nguyễn Hữu Ba… ông đã có quá trình sinh sống và hoạt động tại Huế.

  • Nếu như trào lưu Khai sáng thế kỉ 18 khởi nguồn từ một thiểu số tinh hoa rồi chầm chậm lan truyền ảnh hưởng ra khắp xã hội thì trào lưu Lãng mạn phổ biến hơn nhiều từ cội nguồn đến ảnh hưởng.

  • Joseph Haydn là nhà sáng tạo ra các thể loại cơ bản của âm nhạc. một trong những thành tựu quan trọng nhất của ông là đã phát triển và tạo ra nguyên tắc cấu trúc có ảnh hưởng nhất trong lịch sử âm nhạc, hình thức sonata.

  • Trong lịch sử âm nhạc, ở thời kỳ Tiền cổ điển và Cổ điển (1720-1820), các nhạc sĩ có xu hướng phát triển nhiều hình thức với cách diễn đạt tự nhiên, phản kháng lại phong cách đối âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lý trí, từ đó hình thành một trào lưu mới trong âm nhạc – Rococo.

  • Gần một thế kỷ sau khi qua đời, tuy ít được công chúng biết đến nhưng Bach lại có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến những tượng đài về sau như Mozart, Haydn, Beethoven, Mendelssohn. Ngày nay, âm nhạc của Bach là một phần quan trọng trong lịch sử âm nhạc châu Âu.

  • Trong thời kỳ Baroque, nước Ý đóng vai trò trung tâm với những phát kiến mới về cả nội dung lẫn hình thức thể hiện của âm nhạc.

  • Dù không được thính giả ngày nay biết đến rộng rãi như đồng nghiệp của các thời kỳ sau nhưng những nhà soạn nhạc thời kỳ Phục Hưng cũng để lại không ít dấu ấn trong kỹ thuật sáng tác cũng như trong cải tiến nhạc cụ biểu diễn.

  • KỶ NIỆM 15 NĂM NGÀY MẤT NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN     

    LÝ TOÀN THẮNG
    (Viết tặng VH và BH)

  • Mùa thu năm 1839, khoảng một năm trước khi cưới Robert Schumann, Clara Wieck thổ lộ trong nhật ký: “Những tác phẩm viết cho piano không thể hiện được trí tưởng tượng và khát vọng lớn lao của anh ấy… Ước nguyện lớn nhất của mình là được thấy anh ấy sáng tác cho dàn nhạc… Cầu mong cho mình có thể đưa anh ấy tới đó!”
    Và cô đã làm được điều đó.

  • Mùa thu năm 1839, khoảng một năm trước khi cưới Robert Schumann, Clara Wieck thổ lộ trong nhật ký: “Những tác phẩm viết cho piano không thể hiện được trí tưởng tượng và khát vọng lớn lao của anh ấy… Ước nguyện lớn nhất của mình là được thấy anh ấy sáng tác cho dàn nhạc… Cầu mong cho mình có thể đưa anh ấy tới đó!”
    Và cô đã làm được điều đó.