Dấu ấn dân gian trong truyện thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn

08:45 11/07/2017

MỘC MIÊN (*)

Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.

Ảnh: internet

Bà đã ghi dấu trên chặng đường văn học thời kỳ đổi mới với những tác phẩm như: Bỏ trốn, Đứa bé mất cha, Xóm đê ngày ấy, Tuổi trăng rằm, Học trò lớp 9. Một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của truyện thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn đó là sự tiếp biến văn hóa dân gian trong sáng tác của bà. Những chất liệu dân gian được tác giả khai thác, chắt lọc, làm mới đưa vào sáng tác của mình một cách khéo léo tạo hiệu ứng tối đa cho tác phẩm “sáng” lên lấp lánh vừa gần gũi mà cũng vừa mới lạ, vừa cách tân hiện đại nhưng cũng vừa dân dã, truyền thống.

Dấu ấn dân gian trong quan niệm nghệ thuật về con người

Quan niệm con người chính là sự khám phá, phản ánh con người trong tác phẩm của nhà văn. Với Phan Thị Thanh Nhàn, khi xây dựng hệ thống nhân vật trong những tác phẩm dành cho thiếu nhi bà đã thổi vào đó chất liệu dân gian rồi khéo léo cách tân, tạo nên những hình tượng nhân vật vừa mới mẻ vừa phảng phất phong vị dân gian.

Phan Thị Thanh Nhàn khéo léo xây dựng những hình tượng nhân vật có những phẩm chất tốt đẹp là kết tinh của những giá trị tâm hồn người Việt. Đó là Bà ngoại của cái Thi trong Bỏ trốn, bà khiến chúng ta liên tưởng đến người bà trong truyện cổ tích Bà cháu, là hiện thân của sự bao dung, nhân hậu, giàu lòng vị tha. Bà chắt chiu, yêu thương và hết mực lo lắng cho đứa cháu côi cút. Đến lúc sắp lìa đời, nỗi bận tâm duy nhất vẫn là đứa cháu bé bỏng gặp nhiều bất hạnh. Hay bà của Hiên trong Đứa bé mất cha cũng thế, ở tuổi xế chiều, trước sự tan vỡ gia đình của con trai, điều bà lo lắng chính là đứa cháu trai đang phải đối mặt với cú sốc quá lớn. Bà của Nụ trong Tuổi trăng rằm dù chỉ được nhắc đến bởi vài câu văn ít ỏi trong toàn bộ tác phẩm nhưng vẫn có thể làm nhói lòng người đọc bởi những dằn vặt về nỗi đau mất cháu đã nhiều năm. Trong những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, hình ảnh người bà là hiện thân của những người bà trong cổ tích bước ra để yêu thương những đứa cháu của mình cho đến hết cuộc đời.

Trong Học trò lớp 9, bố của Nghĩa là người cha hết mực thương con “Con tôi không được bình thường. Nên tôi thương nó hơn thương chính mình” và cũng rất yêu vợ “Vợ tôi phải cái nói nhiều. Nhưng mà vẫn cứ… đáng yêu như thường”. Mẹ Nghĩa là người đàn bà yêu chồng yêu con, dù nghèo nhưng giàu lòng tự trọng “Bà dù nghèo nhưng quyết không tiêu tiền của người khác. Bố mẹ Nghĩa như là một minh chứng cho những câu tục ngữ: “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Đói cho sạch rách cho thơm” như là kết tinh giá trị tốt đẹp của tâm hồn Việt. Chính những giá trị ấy quyện vào trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, một lần nữa nó tỏa sáng và có sức cảm hóa mạnh mẽ, vì thế mà khi đọc truyện của Phan Thị Thanh Nhàn, người đọc, đặc biệt là bạn đọc nhỏ tuổi không có cảm giác mình bị “dạy dỗ” về bài học làm người, về đạo lý tốt đẹp của dân tộc một cách cứng nhắc, giáo điều. Người đọc sẽ như hóa thân vào nhân vật để tự cảm, tự thấm những giá trị nhân văn ấy để dần hoàn thiện nhân cách.

Dấu ấn dân gian trong lựa chọn đề tài và phản ánh hiện thực

Lựa chọn đề tài viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn đã ghi dấu ấn trong lòng độc giả bởi những câu chuyện giản dị mà lôi cuốn người đọc qua từng biến động của cuộc đời nhân vật trên từng trang sách. Với năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, chúng ta không khó để nhận ra hành trình sáng tạo của nhà văn trong mỗi tác phẩm chính là hành trình trở về với cội nguồn văn hóa, văn học dân gian. Hình ảnh những em bé mồ côi chịu thương chịu khó, chăm ngoan và hiếu thuận, những em bé thông minh, những người bà nhân hậu và giàu đức hi sinh,… trong những câu chuyện cổ tích, truyện cười mãi là hình ảnh đẹp với bất kì ai và nó thực sự là nguồn cảm hứng, là sự ám ảnh không nguôi đối với những người cầm bút. Viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn cũng xây dựng cho tác phẩm của mình một hệ thống nhân vật trẻ em mang dáng dấp những số phận và tính cách của những nhân vật trẻ em trong cổ tích. Đó là Thi mồ côi mẹ, bố đi lấy vợ khác. Là Nụ mất mẹ bởi bom đạn của chiến tranh. Côi không biết bố mẹ ruột của mình là ai. Là Thu, Vương, Hiên, Hoa, Thái, Luân,… dù còn cha mẹ nhưng cũng chẳng khác gì mồ côi bởi sự tan vỡ của gia đình, được ở với cha thì không thấy mẹ, được ở với mẹ thì không thấy cha. Điểm chung của các em là luôn khao khát một mái ấm gia đình, được che chở và yêu thương. Đó là những em bé luôn chăm ngoan học giỏi, và dù cuộc đời với những biến cố đã xô đẩy các em vấp ngã thì cuối cùng những cô bé, cậu bé ấy vẫn luôn vươn lên, luôn hướng về những giá trị nhân văn để tự hoàn thiện tâm hồn mình. Những câu chuyện của Phan Thị Thanh Nhàn còn tạo nên sự thú vị cho bạn đọc bởi những tình tiết vui nhộn xoay quanh sự nghịch ngợm, lém lỉnh của các em - những cô cậu bé thông minh như trong cổ tích, trong truyện cười dân gian. Là sự dũng cảm của Gái trong Xóm đê ngày ấy khi một mình vật lộn với vợ chồng kẻ gian để lấy lại tài sản cho mẹ bạn. Là sự thông minh, mưu trí của nhóm bạn Nghĩa, Vương, Loan với hành trình tìm cách bảo vệ và giải cứu bạn trong Học trò lớp 9. Khi viết về đề tài thiếu nhi, khắc họa những nhân vật, với những số phận, những biến cố, trắc trở, và cái kết của từng tác phẩm ngoài sự ảnh hưởng từ nền văn hóa, văn học dân gian phải chăng còn do những gì mà cuộc đời của bà đã từng nếm trải. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn từng tâm sự: “Tôi đã quan sát, ghi chép và cặm cụi ngồi viết lại những gì tôi cảm nhận, suy tư và xót thương số phận của những trẻ em không may mắn”. Năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, con số chưa nhiều lắm nhưng từng ấy đủ để ghi dấu cho một phong cách Phan Thị Thanh Nhàn với những trang văn chân thực, trong sáng, nhân văn và mang đậm dấu ấn dân gian.

Hiện thực trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn cũng mang đậm chất dân gian, dân tộc. Trong sáng tác của bà những phong tục, tập quán hiện lên sinh động, chân thực như nó vốn có. Trong Xóm đê ngày ấy, tác giả đặc biệt tỉ mỉ tả cảnh hầu đồng tại nhà của bà đồng Toàn: “Trên chiếc chiếu hoa trải dưới chân điện thờ, bà đồng Toàn chân đi giày vải thêu hoa, tay cầm quạt lụa, nhún nhảy hết sang phải lại sang trái ra bộ đang chèo đò”. Hay phong tục tang ma cũng được nhắc đến trong Bỏ trốn khi mẹ và bà cái Thi mất. “Mùi hương nến ảm đạm. Trong nhà có bàn thờ, hình mẹ nó treo ở trên, xung quanh mờ mịt khói nhang cùng hoa quả”. Như một lẽ dĩ nhiên, những suy tư, cảm nhận của Phan Thị Thanh Nhàn trên trang viết mang dấu ấn văn hóa mà bà đã từng tiếp xúc. Nên trang viết của bà phảng phất điệu hồn văn hóa của dân tộc Việt, đặc biệt là văn hóa ở vùng Bắc Bộ.

Dấu ấn dân gian trong ngôn từ nghệ thuật

Khảo sát những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn dành cho thiếu nhi chúng ta sẽ thu được kết quả đáng ngạc nhiên đó là những chất liệu dân gian với nhũng câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố… được tác giả lồng vào trong tác phẩm của mình một cách vừa vặn, phát huy ưu điểm của nó, làm tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Có những câu tục ngữ, những thành ngữ được sử dụng nguyên văn: “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”, “Đói ăn vụng túng làm càn” (Bỏ trốn); “Con gà tốt mã vì lông” “Nhường cơm sẻ áo”, “Nem công chả phượng” (Xóm đê ngày ấy); Những câu ca dao, bài vè hoặc những câu thơ cũng được lồng vào truyện như những khúc đồng dao trong Bỏ trốn, Xóm đê ngày ấy, Đứa bé mất cha. Đặc biệt, câu đố và cách chơi chữ, vận dụng ca dao cũng xuất hiện trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn khá nhiều: “Qua cửa sổ/ Đến cửa sắt/ Phơi chiếc tã/ Mãi không khô/ Là cái gì?” (Bỏ trốn). Mặt Đường bẩn quá Đường ơi!” (Tuổi trăng rằm). Phan Thị Thanh Nhàn đã sử dụng chất liệu dân gian một cách phù hợp với hoàn cảnh, tính cách của nhân vật. Ví như bà cái Thi bảo: “Đói ăn vụng túng làm càn”. Câu nói đó phải là của một người bà giàu lòng bao dung và trải đời. Và những câu như “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” cứ phải đặt vào miệng người chị dâu ích kỉ luôn khắc nghiệt với em chồng thì mới phát huy hết sức nặng của nó trong vai trò khắc họa tính cách nhân vật. Tương tự những câu đố, câu vè, những câu thơ mang âm hưởng đồng dao, và cách chơi chữ lại phù hợp với lứa tuổi hiếu động thích khám phá thế giới hơn. Chính vì cách sử dụng chất liệu dân gian với dung lượng vừa phải đan xen vào tình tiết cốt truyện một cách hợp lý đúng hoàn cảnh, đúng đối tượng như thế mà chất liệu dân gian đi vào tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn một cách tự nhiên, phát huy giá trị của nó góp phần khắc họa tính cách tâm hồn nhân vật. Giọng văn vì thế cũng tự nhiên gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày không tạo cảm giác xa lạ, khó hiểu với lứa tuổi thiếu nhi. Những bài học nhân sinh từ tác phẩm nhờ thế mà thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ một cách tự nhiên, không gượng ép.

*

Có thể nói đưa những chất liệu dân gian vào những trang viết dành cho thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn, đã góp phần đưa bạn đọc nhỏ tuổi trên hành trình trở về cội nguồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc bằng cách nâng niu trân trọng những giá trị truyền thống. Dấu ấn dân gian trong truyện thiếu nhi của bà tạo nên thế giới nghệ thuật mang điệu hồn dân tộc, làm nên bản sắc riêng cho mảng đề tài truyện viết cho thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn.

M.M  
(SHSDB25/06-2017)

----------
(*) Trường Đại học sư phạm - Đại học Huế  




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.