MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
Ảnh: internet
Bà đã ghi dấu trên chặng đường văn học thời kỳ đổi mới với những tác phẩm như: Bỏ trốn, Đứa bé mất cha, Xóm đê ngày ấy, Tuổi trăng rằm, Học trò lớp 9. Một trong những yếu tố tạo nên phong cách riêng của truyện thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn đó là sự tiếp biến văn hóa dân gian trong sáng tác của bà. Những chất liệu dân gian được tác giả khai thác, chắt lọc, làm mới đưa vào sáng tác của mình một cách khéo léo tạo hiệu ứng tối đa cho tác phẩm “sáng” lên lấp lánh vừa gần gũi mà cũng vừa mới lạ, vừa cách tân hiện đại nhưng cũng vừa dân dã, truyền thống.
Dấu ấn dân gian trong quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm con người chính là sự khám phá, phản ánh con người trong tác phẩm của nhà văn. Với Phan Thị Thanh Nhàn, khi xây dựng hệ thống nhân vật trong những tác phẩm dành cho thiếu nhi bà đã thổi vào đó chất liệu dân gian rồi khéo léo cách tân, tạo nên những hình tượng nhân vật vừa mới mẻ vừa phảng phất phong vị dân gian.
Phan Thị Thanh Nhàn khéo léo xây dựng những hình tượng nhân vật có những phẩm chất tốt đẹp là kết tinh của những giá trị tâm hồn người Việt. Đó là Bà ngoại của cái Thi trong Bỏ trốn, bà khiến chúng ta liên tưởng đến người bà trong truyện cổ tích Bà cháu, là hiện thân của sự bao dung, nhân hậu, giàu lòng vị tha. Bà chắt chiu, yêu thương và hết mực lo lắng cho đứa cháu côi cút. Đến lúc sắp lìa đời, nỗi bận tâm duy nhất vẫn là đứa cháu bé bỏng gặp nhiều bất hạnh. Hay bà của Hiên trong Đứa bé mất cha cũng thế, ở tuổi xế chiều, trước sự tan vỡ gia đình của con trai, điều bà lo lắng chính là đứa cháu trai đang phải đối mặt với cú sốc quá lớn. Bà của Nụ trong Tuổi trăng rằm dù chỉ được nhắc đến bởi vài câu văn ít ỏi trong toàn bộ tác phẩm nhưng vẫn có thể làm nhói lòng người đọc bởi những dằn vặt về nỗi đau mất cháu đã nhiều năm. Trong những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, hình ảnh người bà là hiện thân của những người bà trong cổ tích bước ra để yêu thương những đứa cháu của mình cho đến hết cuộc đời.
Trong Học trò lớp 9, bố của Nghĩa là người cha hết mực thương con “Con tôi không được bình thường. Nên tôi thương nó hơn thương chính mình” và cũng rất yêu vợ “Vợ tôi phải cái nói nhiều. Nhưng mà vẫn cứ… đáng yêu như thường”. Mẹ Nghĩa là người đàn bà yêu chồng yêu con, dù nghèo nhưng giàu lòng tự trọng “Bà dù nghèo nhưng quyết không tiêu tiền của người khác”. Bố mẹ Nghĩa như là một minh chứng cho những câu tục ngữ: “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Đói cho sạch rách cho thơm” như là kết tinh giá trị tốt đẹp của tâm hồn Việt. Chính những giá trị ấy quyện vào trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn, một lần nữa nó tỏa sáng và có sức cảm hóa mạnh mẽ, vì thế mà khi đọc truyện của Phan Thị Thanh Nhàn, người đọc, đặc biệt là bạn đọc nhỏ tuổi không có cảm giác mình bị “dạy dỗ” về bài học làm người, về đạo lý tốt đẹp của dân tộc một cách cứng nhắc, giáo điều. Người đọc sẽ như hóa thân vào nhân vật để tự cảm, tự thấm những giá trị nhân văn ấy để dần hoàn thiện nhân cách.
Dấu ấn dân gian trong lựa chọn đề tài và phản ánh hiện thực
Lựa chọn đề tài viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn đã ghi dấu ấn trong lòng độc giả bởi những câu chuyện giản dị mà lôi cuốn người đọc qua từng biến động của cuộc đời nhân vật trên từng trang sách. Với năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, chúng ta không khó để nhận ra hành trình sáng tạo của nhà văn trong mỗi tác phẩm chính là hành trình trở về với cội nguồn văn hóa, văn học dân gian. Hình ảnh những em bé mồ côi chịu thương chịu khó, chăm ngoan và hiếu thuận, những em bé thông minh, những người bà nhân hậu và giàu đức hi sinh,… trong những câu chuyện cổ tích, truyện cười mãi là hình ảnh đẹp với bất kì ai và nó thực sự là nguồn cảm hứng, là sự ám ảnh không nguôi đối với những người cầm bút. Viết cho thiếu nhi, Phan Thị Thanh Nhàn cũng xây dựng cho tác phẩm của mình một hệ thống nhân vật trẻ em mang dáng dấp những số phận và tính cách của những nhân vật trẻ em trong cổ tích. Đó là Thi mồ côi mẹ, bố đi lấy vợ khác. Là Nụ mất mẹ bởi bom đạn của chiến tranh. Côi không biết bố mẹ ruột của mình là ai. Là Thu, Vương, Hiên, Hoa, Thái, Luân,… dù còn cha mẹ nhưng cũng chẳng khác gì mồ côi bởi sự tan vỡ của gia đình, được ở với cha thì không thấy mẹ, được ở với mẹ thì không thấy cha. Điểm chung của các em là luôn khao khát một mái ấm gia đình, được che chở và yêu thương. Đó là những em bé luôn chăm ngoan học giỏi, và dù cuộc đời với những biến cố đã xô đẩy các em vấp ngã thì cuối cùng những cô bé, cậu bé ấy vẫn luôn vươn lên, luôn hướng về những giá trị nhân văn để tự hoàn thiện tâm hồn mình. Những câu chuyện của Phan Thị Thanh Nhàn còn tạo nên sự thú vị cho bạn đọc bởi những tình tiết vui nhộn xoay quanh sự nghịch ngợm, lém lỉnh của các em - những cô cậu bé thông minh như trong cổ tích, trong truyện cười dân gian. Là sự dũng cảm của Gái trong Xóm đê ngày ấy khi một mình vật lộn với vợ chồng kẻ gian để lấy lại tài sản cho mẹ bạn. Là sự thông minh, mưu trí của nhóm bạn Nghĩa, Vương, Loan với hành trình tìm cách bảo vệ và giải cứu bạn trong Học trò lớp 9. Khi viết về đề tài thiếu nhi, khắc họa những nhân vật, với những số phận, những biến cố, trắc trở, và cái kết của từng tác phẩm ngoài sự ảnh hưởng từ nền văn hóa, văn học dân gian phải chăng còn do những gì mà cuộc đời của bà đã từng nếm trải. Tác giả Phan Thị Thanh Nhàn từng tâm sự: “Tôi đã quan sát, ghi chép và cặm cụi ngồi viết lại những gì tôi cảm nhận, suy tư và xót thương số phận của những trẻ em không may mắn”. Năm tác phẩm dành cho thiếu nhi, con số chưa nhiều lắm nhưng từng ấy đủ để ghi dấu cho một phong cách Phan Thị Thanh Nhàn với những trang văn chân thực, trong sáng, nhân văn và mang đậm dấu ấn dân gian.
Hiện thực trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn cũng mang đậm chất dân gian, dân tộc. Trong sáng tác của bà những phong tục, tập quán hiện lên sinh động, chân thực như nó vốn có. Trong Xóm đê ngày ấy, tác giả đặc biệt tỉ mỉ tả cảnh hầu đồng tại nhà của bà đồng Toàn: “Trên chiếc chiếu hoa trải dưới chân điện thờ, bà đồng Toàn chân đi giày vải thêu hoa, tay cầm quạt lụa, nhún nhảy hết sang phải lại sang trái ra bộ đang chèo đò”. Hay phong tục tang ma cũng được nhắc đến trong Bỏ trốn khi mẹ và bà cái Thi mất. “Mùi hương nến ảm đạm. Trong nhà có bàn thờ, hình mẹ nó treo ở trên, xung quanh mờ mịt khói nhang cùng hoa quả”. Như một lẽ dĩ nhiên, những suy tư, cảm nhận của Phan Thị Thanh Nhàn trên trang viết mang dấu ấn văn hóa mà bà đã từng tiếp xúc. Nên trang viết của bà phảng phất điệu hồn văn hóa của dân tộc Việt, đặc biệt là văn hóa ở vùng Bắc Bộ.
Dấu ấn dân gian trong ngôn từ nghệ thuật
Khảo sát những trang viết của Phan Thị Thanh Nhàn dành cho thiếu nhi chúng ta sẽ thu được kết quả đáng ngạc nhiên đó là những chất liệu dân gian với nhũng câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đố… được tác giả lồng vào trong tác phẩm của mình một cách vừa vặn, phát huy ưu điểm của nó, làm tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Có những câu tục ngữ, những thành ngữ được sử dụng nguyên văn: “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”, “Đói ăn vụng túng làm càn” (Bỏ trốn); “Con gà tốt mã vì lông” “Nhường cơm sẻ áo”, “Nem công chả phượng” (Xóm đê ngày ấy); Những câu ca dao, bài vè hoặc những câu thơ cũng được lồng vào truyện như những khúc đồng dao trong Bỏ trốn, Xóm đê ngày ấy, Đứa bé mất cha. Đặc biệt, câu đố và cách chơi chữ, vận dụng ca dao cũng xuất hiện trong tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn khá nhiều: “Qua cửa sổ/ Đến cửa sắt/ Phơi chiếc tã/ Mãi không khô/ Là cái gì?” (Bỏ trốn). Mặt Đường bẩn quá Đường ơi!” (Tuổi trăng rằm). Phan Thị Thanh Nhàn đã sử dụng chất liệu dân gian một cách phù hợp với hoàn cảnh, tính cách của nhân vật. Ví như bà cái Thi bảo: “Đói ăn vụng túng làm càn”. Câu nói đó phải là của một người bà giàu lòng bao dung và trải đời. Và những câu như “Con gái cái bòn”, “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” cứ phải đặt vào miệng người chị dâu ích kỉ luôn khắc nghiệt với em chồng thì mới phát huy hết sức nặng của nó trong vai trò khắc họa tính cách nhân vật. Tương tự những câu đố, câu vè, những câu thơ mang âm hưởng đồng dao, và cách chơi chữ lại phù hợp với lứa tuổi hiếu động thích khám phá thế giới hơn. Chính vì cách sử dụng chất liệu dân gian với dung lượng vừa phải đan xen vào tình tiết cốt truyện một cách hợp lý đúng hoàn cảnh, đúng đối tượng như thế mà chất liệu dân gian đi vào tác phẩm của Phan Thị Thanh Nhàn một cách tự nhiên, phát huy giá trị của nó góp phần khắc họa tính cách tâm hồn nhân vật. Giọng văn vì thế cũng tự nhiên gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày không tạo cảm giác xa lạ, khó hiểu với lứa tuổi thiếu nhi. Những bài học nhân sinh từ tác phẩm nhờ thế mà thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ một cách tự nhiên, không gượng ép.
*
Có thể nói đưa những chất liệu dân gian vào những trang viết dành cho thiếu nhi Phan Thị Thanh Nhàn, đã góp phần đưa bạn đọc nhỏ tuổi trên hành trình trở về cội nguồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc bằng cách nâng niu trân trọng những giá trị truyền thống. Dấu ấn dân gian trong truyện thiếu nhi của bà tạo nên thế giới nghệ thuật mang điệu hồn dân tộc, làm nên bản sắc riêng cho mảng đề tài truyện viết cho thiếu nhi của Phan Thị Thanh Nhàn.
M.M
(SHSDB25/06-2017)
----------
(*) Trường Đại học sư phạm - Đại học Huế
THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.
LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.
TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)
THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.
THI THOẠI Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.
ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…
L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.
Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)
HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.
TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)