Cuối tuần với Modiano

09:10 30/10/2014

Vivre, c'est s'obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.
              RENÉ  CHAR

Nghe tin mừng Patrick MODIANO vừa được trao Nobel - đây cũng là vinh dự lớn cho nền văn học Pháp với 15 Nobel Văn Học - tôi lục tìm trong mấy kệ sách nhà mớ tiểu thuyết của Modiano để đọc lại. Thấy thiếu mấy cuốn - có lẽ cho mượn hay tặng bạn - tôi lái xe về Cambridge ghé nhà sách ngoại văn Schoenhof’s hi vọng tìm được vài đầu sách. Nhưng đã muộn, dâng hiền sách hoặc mê văn chương Pháp đã mua hết mọi trước tác của nhà vănTân-Nobel; chỉ còn duy nhất một quyển suy nghiệm về lịch sử khô khan ... Bèn quay về nhà, ngồi cạnh lò sưởi nhỏ với La Place de L'Etoile  vừa nhâm nhi rượu vang cho qua đêm dài lập thu.

Sinh năm 1945 ở ngoại ô Paris ông bỏ đại học văn khoa sau năm dự bị và theo nghiệp văn bút từ đó.

Tiểu thuyết đầu tay LA PLACE DE L' ETOILE gây sự chú ý với giải Roger Nimier 1968; tiếp theo là LA RONDEDE NUIT và LES BOULEVARDS DE CEINTURE - ba cuốn truyện ông viết một hơi trong 5 năm thành bộ tam thiên (trilogie) về giai đoạn nước Pháp bị Hitler chiếm đóng. Đây sẽ là chủ đề xuyên suốt các trước tác về sau của Patrick Modiano. Giải Goncourt năm 1978 với tiểu thuyết RUE DES BOUTIQUES OBSCURES cùng giải Văn Chương Quốc Gia Grand Prix National des Lettres năm 1996 cho toàn bộ văn nghiệp là vài dấu mốc vinh quang trong cuộc đời của một văn hào bị phân thân liên tục giữa ký ức, bản sắc và số phận con người thăng trầm theo các biến động lịch sử.

Làm thơ từ lúc 9, 10 tuổi Patrick Modiano cũng có viết  vài ca khúc. Bài đầu tiên của ông đặt lời là"Étonnez-moi Benoit" được Françoise Hardy hát năm 1968.                                                                            

Nhưng máu văn chương đã lôi ông vào thế giới tiểu thuyết từ thuở 15 tuổi với nhiều phác thảo bỏ dở; cho đến mùa hè 1966 khi ông viết một mạch bản thảo La Place de l’Etoile và dứt điểm vào dịp Giáng Sinh. Đứa con đầu được nhà Gallimard xuất bản năm 1968giúp cho tác giả nó đủ tự tin để sáng tác ngay sau đó La Ronde de nuit – phát hành năm kế tiếp. Cuốn sau này là một kiệt tác ngắn với cốt truyện và tình tiết tập trung quanh nhân vật mang bí danh Lamballe, vừa làm mật vụ Gestapo Pháp vừa tham gia kháng chiến nội thành Paris, một loại tính cách nhị trùng cộng bệnh lý lịch sử-văn hóa mà Modiano sẽ dàn dựng và đào sâu trong chuỗi tác phẩm hư cấu của mình. Lamballe là tiền thân cho nhân vật Lucien Lacombe, phim truyện sau này Louis Malle sẽ đạo diễn thành công theo kịch bản của Modiano .  La Ronde de nuit đưa chàng nhà văn 23 tuổi lúc ấy vào danh sách các ngòi bút sáng giá của tạp chí uy tín Le Magazine Littéraire khi tổng kết 40 văn học thế giới 1966-2006.Bài nói chuyện giữa tác giả với tạp chí năm 1969 chung quanh hai cuốn truyện đầu tay cũng được đăng lại trong số báo đặc biệt này:

Jean Montalbetti: Có liên hệ gì giữa hai quyển sách?

Patrick Modiano : La Place de l'Étoile là bài toán do thái và chỉ có vậy. La Ronde de nuit không chỉ là nước Pháp thời Vichy. Khi viết, tôi lợi dụng không khí Paris dưới ách chiếm đóng, nhưng tôi đồng thời không muốn truyên kể của tôi bị ràng buộc vào một thời điểm. Trong cả hai cuốn, bao giờ cũng là sự tìm kiếm bản sắc. Cuốn đầu là bản sắc do thái, còn cuốn sau là sự trốn chạy bản năng khỏi mọi định hình bản sắc. Sự việc diễn ra trong một khung cảnh đạo lý, nhưng nhân vật của nó là một kẻ hoàn toàn thiếu tính chất đạo lý.

JM : Tại sao ông quyến luyến với một thời kỳ khi mà ông chưa có mặt trên đời ?

PM : Đó là một thế giới trong đó tôi tìm thấy tất cả những gì ám ảnh mình - dù tôi không được biết nó. Sau ngày chiến tranh kết thúc, ta đã thấy hình thành một xã hội nhập nhằng đầy bọn trục lợi và đám thất thế. Trong thế giới ấy tôi tìm lại thứ cảm giác tôi thường xuyên có trong người là sự chông chênh không tìm ra điểm tựa. Lại còn một bầu khí công an của sự băng hoại luân thường. Khi tôi nghĩ đến giai đoạn Đức chiếm đóng, điều tôi lưu tâm không phải tính cách anh hùng ở vài người mà là sự thối nát và đớn hèn của đại đa số.

( ... )

JM : La Ronde de nuit được ghi chú là tiểu thuyết. Nhưng nơi trang 148 ông thú nhận rằng các nhân vật của mình từng hiện hữu và được nêu đúng tính danh...Có phải đó chỉ là một xão thuật?

PM :Tôi đã vận dụng một lối vọng tưởng huyền thoại (mythomanie) để có thể trộn lẫn sự thực với hư cấu. Cùng lúc tôi có cảm tưởng cách pha nhiễu này gây nên một thứ tâm trạng bất ổn đáng lẽ không xảy ra nếu độc giả biết được chắc chắn họ đang ở trong cõi tưởng tượng thuần túy hoặc là trong thực tế lịch sử. Xin nói thêm, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến đối với tôi hầu như họ là huyền thoại...Tôi nhìn ngắm họ như những kẻ đi dây rất quyến rũ. Tôi có cảm nghĩ mình sinh vào thời kỳ ấy, và khi nhắc gợi các xung đột của họ tôi cũng được quay về nguồn cội của mình.

(...)

Tôi có vài kỷ niệm khó quên với PM;  ông là một trong số các nhà văn tôi khám phá sau tháng 4-75 trong những năm dài ngột ngạt về thông tin và tư tưởng ở VN. Cũng may khả năng ngoại ngữ đã cho phép tôi ung dung ngao du trong thế giới chữ nghĩa phương Tây trong khi ngoài đời các sách dịch văn học của Sài Gòn trước đó bị tịch thu, kết án, hay lén lút chuyền tay...Trong không khí bất an như thế, những trang văn trongLa Place de l’Étoile hay La Ronde de nuitlại quyến rủ hơn vì tính chất nhá nhem lịch sử, nhập nhằng nhân tính thời nước Pháp bị Đức chiếm đóng – ít nhiều tương ứng với cả miền Nam lúc bấy giờ vẫn bị quân quản giới nghiêm khi mà bọn thua trận mang trên người đủ loại hóa trang để sống chung với phe thắng cuộc.

                                                                        ***

Rời khỏi VN sau này, tôi tiếp tục tìm đọc sáng tác mới của Modiano cũng như các biên khảo hoặc phê bình về nghệ thuật tiểu thuyết của ông, đặc biệt vào những dịp sang Pháp thăm mẹ vào mùa hè. Cho đến hôm nay ông đã cống hiến cho nền văn học - không riêng gì nước Pháp - 28 tác phẩm trong đó có cả hai tự truyện LIVRET DE FAMILLE và PEDIGREE để dựng lại chân dung nghệ thuật cho cha mẹ ông và chính quá trình hình thành nhà văn Patrick Modiano có người cha là một doanh nhân Ý-Do thái quảng giao với giới quí tộc thượng lưu Pháp và bà mẹ diễn viên kịch nghệ gốc Bỉ. Có thể nói toàn bộ sáng tác ấy xoay quanh nỗ lực phục chế quá khứ bằng cách hư cấu những nhân vật quay về chốn cũ tìm kiếm hình bóng một người thân thuộc như cha mẹ, người tình, hoặc chính bản thân trong dĩ vãng như kẻ mất trí điều tra tông tích mình qua các trang tiểu thuyết Rue des Boutiques obscures/Con Đường của những Cửa Tiệm âm u được giải Goncourt 1978... Mối ám ảnh đó nằm cô đọng trong câu văn René Char mà Modiano đã mượn để mở đầu quyển tự truyện LIVRET DE FAMILLE :Vivre, c'est s'obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.

Như Victor trở lại Thụy Sĩ, ký ức còn vương mùi hương của Yvonne (Villa Triste) hay bóng hình Carmen ám ảnh Jean hai mươi năm sau lúc quay về mấy con phố Paris cũ (Quartier Perdu), kẻ kể truyện luôn luôn đi tìm một phụ nữ của kỷ niệm - Louki (Dans le café de la jeunesse perdue), Jacqueline (Du plus loin que l'Oubli), ??? Vì nội dung  các tác phẩm Modiano quay đi quay lại là sự truy tìm quá khứ và những năm tháng đã biệt tăm, các độc giả của ông phần nào sẽ tán thành khi  Peter Englund, thư ký văn phòng Nobel, xưng tụng Modiano là “Proust của chúng ta hôm nay”  qua những trang tả tình quyến luyến da diết không kém quan hệ Swann-Odette hay Marcel-Albertine thuở nào. Với giới sành văn chương diễm tình Pháp, sự mê đắm gần như hoang đường với mấy bóng hồng quá vãng đó còn nhắc thêm mối ám ảnh tâm thần của Gérard de Nerval với các kiều nữ Aurélia, Sylvie, Adrienne… trong Les Filles du Feu.

Nhưng với kẻ chịu khó so sánh bút pháp với văn phong thì hai nhà văn là hai đối cực. Proust thì gặm nhấm ký ức trong từng câu dài lê thê quá kích thước ngữ pháp thông thường, Modiano lại ngắn gọn kiệm lời khi trao cho bối cảnh địa lý - thay vì ngữ cảnh- chức năng dàn dựng mọi niềm ám ảnh. Theo tôi, ngòi bút có phong cách gần với Modiano nhất là Marguerite Duras.

Ils sont devant l'hôtel, ils font les cent pas. Elle attend l'auto qui doit venir la prendre pour la mener place de la Paix. Il y a peu de monde. Mais les autos passent sans arrêt. C'est un boulevard. HIROSHIMA,MONAMOUR.

Quand il revient du métro, le boulevard ...était désert, et ses pas résonnaient...il pensait à l'homme qui, à cette heure, était peut-être encore à courir les rues, anxieux, évitant les coins sombres, cherchant un peu de sécurité dans les bars et les cafés.MAIGRET ET SON MORT.

Kỹ thuật dựng truyện phỏng theo thể loại hình sự của Modiano không chỉ giống Simenon về cách hành văn mà còn tương đồng về mẹo dàn dựng khung cảnh đặc thù tại Paris, London, vùng biển Normandie hay miền đồi núi Savoie-Thụy sĩ...Nhưng sự vật dù cụ thể đến đâu vẫn bị vây bọc bởi một màn sương hoài niệm gần như vô định của một Từ Thức thời đại như Jean Claude Raspiengas đã nhận định về Modiano, "éternel égaré dans le Paris des réminiscences/kẻ thất lạc đời đời giữa Paris của các hồi tưởng".( La Croix, 3-10-2014). Nhưng kẻ thất lạc này là một phù thủy rành pháp thuật văn chương, biết huơ bút chụp bắt năm tháng đã qua và khiến cho các hồn ma hiện lại. Bí quyết ấy có khi đơn giản như một màn ảo thuật -

Les dimanches, surtout en fin d'après-midi, et si vous êtes seul, ouvrent une brèche dans le temps. Il suffit de s'y glisser. L'HERBE DES NUITS.

Nếu ta đơn độc, những ngày chúa nhật - nhất là lúc xế chiều - mở ra một khe hở thời gian. Ta chỉ cần lách mình vào.

                                  HinghamBay, trung tuần October, 2014 

Nguồn: Chân Phương - vanchuongviet

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

    Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.