Nghệ sĩ Trọng Thanh
Trong cuốn sách ảnh "Legendary Ho Chi Minh trail" mà Thanh ghi tặng tôi ngày hai thằng vừa kết thúc chuyến du khảo Văn hóa xuyên Việt "Vượt Trường Sơn" hồi tháng 8 vừa qua, tôi cực kỳ bị thuyết phục bởi bức ảnh Thanh chụp động tác của người lính giải phóng rót nước từ bi đông vào miệng người lính ngụy trên cao điểm 550 trong chiến dịch đường Chín - Nam Lào 1971. Đấy là thời điểm bấm máy bị chi phối bởi khát vọng hòa hợp dân tộc bỏng cháy trong Thanh. Lúc ấy, dám chụp một bức ảnh như thế phải là người hết sức bản lĩnh, dám đương đầu, dám chấp nhận để đạt tới nhân bản. Theo lời Thanh kể, chỉ sau đó vài giây, người lính giải phóng rời khỏi ống kính của anh để đi vào cõi bất tử. Người lính ấy ngã xuống vô danh như biết bao người lính, nhưng hành động đầy tình đồng bào của anh thì mãi mãi là lời nhắc nhở mọi thế hệ hãy sống với nhau chan chứa như ca dao "Bầu ơi thương lấy bí cùng..." Có lẽ đó là lý do Thanh cứ đi tìm đến không biết chán những hình ảnh ở Trường Sơn, tìm đến mức "gàn dở, hấp lìm", tìm đến mức chính Thanh đã hóa thành một phần máu thịt trong cơ thể Trường Sơn. Cái sự tìm ấy của Thanh là tìm sự thực bi tráng tuyệt vời của Trường Sơn, chứ không phải sự thực được tô son trát phấn của lắm kẻ chỉ lăm lăm "đánh quả" Trường Sơn bằng những mỹ từ lu loa đến phát ngượng cả vong linh những người đã hy sinh. Thanh cực đoan với Trường Sơn đến mức bị nghi ngờ về "phẩm hạnh". Một trong số những người thiển cận nghi ngờ đó có tôi. Ở cái kinh kỳ Hà Thành nhỏ bé này mà suốt hơn hai mươi năm thanh bình, chúng tôi không có duyên gặp nhau mà chỉ nghe đồn về nhau. Về những lời đồn... chao ôi! những lời đồn...chúng khiến chúng tôi càng ngày càng không muốn gặp nhau. Thằng nào cũng sợ gặp phải một thằng "Trường Sơn dởm".
Nhưng rồi ông giời vẫn bắt chúng tôi tao ngộ. Tôi và Thanh chính thức gặp nhau và bắt đầu cảm thấy chơi được với nhau sau màn giáo đầu rất ngắn ngày 1 - 8 - 2000 khởi sự chuyến xuyên Việt, trước khi cùng bước lên xe ô tô. Và thế là trong suốt cuộc hành trình, hai thằng bi bô mãi những kỷ niệm chừng xa lắc về Trường Sơn, bi bô có lúc hơi lố vì xung quanh toàn là các bạn trẻ chưa một lần biết Trường Sơn. Và chắc chắn là sẽ lãnh đủ cái vụ "ra vẻ công thần". Song mặc thôi. Miễn là cứ thấy mình thoải mái, thoải mái như khi đang yêu thật lòng dẫu cái bi kịch, cái chết đang rình rấp đâu đó. Sống được mấy chục năm thanh bình, đối với những người như Thanh và tôi là lãi to rồi. Hạ màn lúc nào là xong lúc đó. Nhưng khi sự thật diễn ra thì chính tôi lại ngỡ ngàng sao có thể nhanh đến như thế... Hiểu tấm lòng của Thanh với Trường Sơn, về Hà Nội, tôi lại hiểu thêm tấm lòng của Thành với vẻ đẹp nguyên sơ ở cơ thể phụ nữ. Ở căn buồng hẹp số 79 Lý Thường Kiệt, nơi Thanh trút hơi thở cuối cùng một cánh đột ngột, Thanh đã từng làm tôi ngạt thở khi chất chồng lên tôi một núi ảnh "nude". Không hề có một chút gợi sắc lục gì ở những đường nét đầy giai điệu đó. Chỉ thấy sự hấp dẫn khó tả của vẻ đẹp toát ra từ những sáng tối, lấp loáng ấy. Và chúng tôi bàn với nhau về một triển lãm trong tương lai gần mang tên "Tòa thiên nhiên". Về cái khoản này, cứ xin chữ cụ Nguyễn Du là cao siêu và lành sạch nhất. Đã có một "Trọng Thanh Trường Sơn", lại có thêm một "Trọng Thanh nude". Khát vọng xóa đi những bi kịch giữa con người với con người là cảm hứng truyền qua những thời điểm bấm máy của Thanh. Không phải lúc nào khát vọng ấy cũng bật ra được từ những khuôn hình. Nhưng dù sao cũng không thể thiếu khát vọng. Vậy mà bi kịch lại bất chợt ập đến, cướp Thanh đi. Giải thích thế nào đây sự vô nghĩa lý này. Chỉ biết cuối cùng, tai họa giáng xuống với con người tức thì đều là bi kịch. Có lẽ đến bây giờ thì Thanh đã cảm thấy mình chết thật, chết hoàn toàn. Cầu mong linh hồn Thanh siêu thoát thanh thản để mau quây quần với những linh hồn từng có trong khuôn hình đa đoan của Thanh. N.T.K (142/12-00) |
THANH THẢO“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngvề sông ăn cá về đồng ăn cua”
NGUYỄN KHẮC PHÊCó lẽ trong các loại tổ chức hội đoàn, tổ chức các Chi hội nhà văn (thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) là ít họp hành nhất; trong đó Chi hội ở Thừa Thiên Huế hẳn được xếp “đầu bảng” về “thành tích” này.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHĐêm hè từ 7 giờ tối tới 7 giờ sáng. 12 giờ liên tục nhận những cái rùng mình trong toa máy lạnh ghế mềm chuyến tầu xuyên Việt. 9 giờ sáng xuống Huế. Cơn mưa rớt bão Chanchu đã tạnh. Nắng Huế nhức đầu. Khách sạn Duy Tân. Nằm đọc Tạp chí sông Hương.
Gắn liền với 700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân, 700 năm thơ Huế là tập thơ do Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà văn TT-Huế phối hợp thực hiện và sẽ ra mắt bạn đọc trong thời gian đến. Đây sẽ là tập thơ có bề dày và cũng là tập thơ đầu tiên khái quát một chiều dài với một diễn trình lịch sử thơ ca của vùng đất TT-Huế.
ĐÀO ĐỨC TUẤNNhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Bình Định. Thơ in trong nhiều tuyển tập trong và ngoài nước nhưng chỉ có một tập riêng “Viết dưới bóng quê nhà” (NXB Hội Nhà văn - 2008).
NGỰ VIÊNLTS: Văn học trẻ Huế hiện nay như thế nào? Các tác giả trẻ đang ở đâu? Tại sao đã nhiều năm nay, không có một hội viên mới nào của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế ở độ tuổi thậm chí U40? Đâu rồi, một sân chơi văn học vốn là niềm tự hào một thời của những cây bút trẻ Huế?... Một thực tế đầy bức xúc đã khiến những người có trách nhiệm không thể tiếp tục ngồi yên. Cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” do Tạp chí Sông Hương và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức vào sáng chủ nhật 12/10 vừa qua, nói như nhà văn Tô Nhuận Vỹ, “lẽ ra phải được tổ chức từ lâu”…
BỬU NAM* Để tưởng nhớ Trịnh Công Sơn và Ngô Kha1. Buổi chiều nắng vàng rực trên tàn cây xanh. Hình như có một con chim nhỏ nào đó đang líu lo trong lùm cây trên cao.
NGUYỄN THỤY KHA1. BÁC CẢ KHOÁTNhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát sinh năm Canh Tuất 1910 - năm Tuất đầu tiên của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Thoa Xuyên Kim (vàng trang sức).
NGUYỄN ĐẮC XUÂN thực hiệnNhạc sĩ Phạm Duy sinh trưởng ở Hà Nội (5.10.1921), một thời gian dài sinh sống ở miền Nam và nước ngoài, tác phẩm của ông gắn bó với nhiều địa phương trong cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử, ông đã có những quan hệ đặc biệt với Huế, với vùng núi Ngự sông Hương.
NGÔ MINHTrên hành trình văn chương thăm thẳm, mỗi nhà văn đều có một lối khởi hành riêng. Đối với nhà văn trẻ Văn Cầm Hải, con đường đó bắt đầu từ sự lựa chọn đầy nghị lực: Anh không ăn bóng một thời đã đi qua. Câu thơ Hải viết về Apolinaire như một tuyên ngôn của mình! Quen thân Văn Cầm Hải hơn 10 năm nay, tôi thấy chàng trai trẻ này là một mẫu thanh niên hiện đại trong suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật, ham học hỏi, có chí tiến thủ, không bao giờ bỏ phí thời gian vào những say mê vô bổ.
LGT: Nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 30-8-1966, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Trưởng phòng chương trình Đài PTTH TT.Huế, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp VHNT TT.Huế, ủy viên thường trực Hội Nhà văn TT.Huế, Trưởng ban Biên tập TCSH, Thư ký Chi hội Nhà báo TCSH đã đột ngột qua đời ngày 16 -12-2006 tại Huế. Thương tiếc anh và thể theo nguyện vọng của bạn hữu, đồng nghiệp, Sông Hương xin dành số trang đáng kể đăng điếu văn của Hội Liên hiệp VHNT cùng các bài viết viếng, tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Phương - Lê Huỳnh Lâm - Trần Tuấn - Nguyễn Trương Khánh Thi - Hồ Thế Hà - Trần Hạ Tháp - Đào Đức Tuấn - Tỷ Em - Ngô Minh - Lãng Hiển Xuân - Phạm Thị Anh Nga - Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyên Quân - Đinh Thu - Nhất Lâm - Ngô Cang - Ngàn Thương - Lê Ngã Lễ
NGÔ MINHDịp sát Tết Đinh Hợi, thoáng thấy tôi trên đường Lê Lợi, anh Ngọc Tranh ra hiệu dừng xe rồi nhanh nhẹn mở tờ báo Tuổi Trẻ ra, nheo nheo con mắt cười hồ hởi: “Mình làm Trò chơi mà được Trời cho, ông thấy ngon không?”. Thì ra, báo Tuổi Trẻ ra ngày 13-2-2007, tức ngày 26 Tết, đưa tin Liên hoan hài kịch Xuân 2007 của Thành phố Hồ Chí Minh vừa kết thúc tại sân khấu nhạc nước Đầm Sen, nhóm Hoàng Sơn được giải nhất với vở hài kịch ngắn Trời cho.
MAI VYNhạc sĩ Trần Hữu Pháp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo nghèo tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Từ năm 1946, Trần Hữu Pháp thoát ly gia đình phục vụ cách mạng. Trong sáu mươi năm, anh đã gắn bó với nhiều vùng đất của Tổ quốc.
TRẦN ĐƯƠNGCuối năm 1973, đầu năm 1974, khi bắt đầu tiến hành tuyển chọn và dịch thơ của Tố Hữu ra tiếng Đức, tôi có gửi tới nhà thơ danh mục những bài cần dịch và xin ông cho ý kiến.
Sức sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh là một niềm vui cho làng văn học Việt . Trong những ngày tháng điều trị, những trang viết của ông không vì thế “đóng cửa” mà nhiều khi lại thăng hoa vì đây là khoảng thời gian đúc kết của một chuỗi dài “ham chơi”, một thời đã từng lên rừng xuống bể, vào Nam ra Bắc với biết bao “Miền gái đẹp”... Không bao giờ dừng bước - Đó cũng là cốt cách của nhà văn gốc Bích Khê, Quảng Trị này.
NGÔ MINHLTS: Giáo sư Lê Quang Vịnh, người trí thức Sài Gòn yêu nước bị toà án binh đặc biệt của Chính quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962 và đày ra Côn Đảo biệt giam trong chuồng cọp, hầm đá, bị khổ sai suốt 14 năm ròng, từ năm 1962 - 1975. Cuộc đời và nhân cách, ý chí kiên cường của người tử tù nổi tiếng này là một pho truyện lạ lùng và hấp dẫn. Nhà thơ Ngô Minh vừa hoàn thành bản thảo tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh”. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc chương nói về những mối tình nước mắt của Lê Quang Vịnh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, trước khi bị án tử hình.
HOÀNG VŨ THUẬT
Sinh ngày 02 tháng 8 năm 1962 tại Cao Lãnh, Đồng ThápTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (khoá III).Hiện công tác ở Báo Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí MinhHội viên Hội Nhà văn Việt NamBài “copy” sau đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Thu Nguyệt và nhà báo Diễm Chi, đăng trên báo Phụ nữ chủ nhật thành phố Hồ Chí Minh.http://thunguyetvn.com
NGUYỄN QUANG SÁNG“Cách đây ba năm tôi có viết về nhà văn Sơn , chớ không phải khi nghe tin anh đi xa rồi, tôi mới nghĩ đến anh. Tôi viết về anh lúc anh còn khoẻ mạnh và minh mẫn. Anh đã đọc, gật đầu, cười…”.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNLTS: Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi của cuộc tập kích ấy buộc Đế quốc Mỹ giữa lúc có đông quân nhất ở Việt Nam, hy vọng sẽ chiến thắng bằng quân sự phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn hoà đàm mở đầu cho thời kỳ thất bại của Mỹ dẫn đến chỗ Mỹ phải rút chạy khỏi miền Nam Việt Nam.