Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
Ảnh: internet
SLAVOJ ŽIŽEK
Hiểu được sự trục trặc mà dịch coronavirus gây ra, về cơ bản, cũng chính là việc hiểu được nó sẽ thay đổi cách chúng ta sống cùng nhau ra sao. Cuộc sống của chúng ta, ngay cả khi nó có trở lại bình thường đi nữa, thì cũng sẽ bình thường trở lại theo cách khác so với lúc chúng ta đã từng sống trước khi bùng phát đại dịch.
Giờ đây, những gì mà chúng ta đã từng trải qua như một phần của cuộc sống hàng ngày sẽ không còn được coi là bình thường nữa; chúng ta sẽ học cách sống một cuộc sống mong manh hơn với những mối đe dọa liên tục. Chúng ta sẽ điều chỉnh thái độ chung của chúng ta trước cuộc sống lúc này - trước sự tồn tại của chúng ta như những sinh vật sống giữa các dạng sống khác. Chúng ta sẽ nghĩ khác về bản thân mình hơn trước đây sau dịch corona virus. Vậy, khác thế nào?
Để làm rõ điều này, tôi muốn trích dẫn một định nghĩa xuất phát từ nhà triết học người Mỹ Daniel Dennett: Virus là “mọi tác nhân có thể lây nhiễm, thường có kích thước siêu vi, chúng bao gồm một nhân axit nucleic nằm trong vỏ bọc protein (DNA hoặc RNA). Chúng lây nhiễm cho động vật, thực vật và vi khuẩn, và chỉ sinh sôi nảy nở trong các tế bào sống. Virus được coi là các thực thể hóa học vô cơ hoặc đôi khi được xem là các sinh vật hữu cơ.”
Sự dao động giữa tính chất vô cơ và hữu cơ này rất quan trọng: theo ý nghĩa thông thường của những từ này, virus không sống cũng không chết; chúng là một loại xác sống - một con virus sống được là nhờ vào sự thôi thúc sinh sôi nảy nở của nó. Nhưng đó lại là một kiểu sống không cấp độ, một biếm họa sinh học (biologische Karikatur).
Virus không phải là dạng sống mà từ đó các dạng sống tinh vi hơn bắt nguồn từ nó; chúng chỉ là những ký sinh trùng và sinh sôi nảy nở bằng cách lây nhiễm các sinh vật phát triển hơn. Sự trùng khít của các mặt đối lập này - phôi thai và ký sinh - là bí ẩn của virus: chúng là một trường hợp đặc biệt làm ta nhớ đến cái mà Schelling gọi là “phần tàn dư không bao giờ có thể vượt bỏ” (der nie aufhebbare Rest); một tàn dư của dạng sống thấp nhất xuất hiện như một sản phẩm trục trặc của các cơ chế sinh trưởng cao hơn, một loại tàn dư không bao giờ có thể được tích hợp vào thời điểm phát sinh của một cấp độ sống cao hơn.
Ở đây, chúng ta có thể liên hệ điều này với cái mà Hegel gọi là phán đoán tư biện, tức sự đồng nhất của cái cao nhất và cái thấp nhất. Ví dụ nổi tiếng nhất của Hegel: “Tinh thần là một đốt xương” xuất phát từ phân tích của ông về tướng số học trong “Hiện tượng học tinh thần”, và ví dụ của chúng ta: “Tinh thần là một loại virus” cũng tương tự như thế. Tinh thần con người không chỉ là một loại vi rút hoạt động như một ký sinh trùng sống trong nó, mà con vi rút này còn khai thác nó để sinh sôi nảy nở, đôi khi còn đe dọa đến mạng sống của nó?
Nhà sinh học tiến hóa người Anh Richard Dawkins đã đề ra khái niệm memes, tức “những con virus tinh thần”, là những sinh vật ký sinh xâm chiếm quyền tự chủ của con người và sử dụng nó như một phương tiện để sinh sôi nảy nở. Và Daniel Dennett cũng viết rằng: “Con người là chủng người vượn với bộ não bị lây nhiễm, là vật chủ cho hàng triệu cộng sinh văn hóa. Cái mở đường quan trọng nhất của chúng là những hệ thống cộng sinh được gọi là ngôn ngữ.” Tuy nhiên, không ai khác ngoài Leo Tolstoy chính là người đã nảy ra ý tưởng này đầu tiên.
Phạm trù cơ bản trong nhân học của Tolstoy là sự lây nhiễm (Infektion). Ông nhìn thấy con người như một phương tiện thụ động, trống rỗng, bị lây nhiễm bởi các yếu tố văn hóa, giống như trực khuẩn truyền nhiễm lây lan từ cá nhân này sang cá nhân khác. Và Tolstoy đi đến kết luận rằng: ông không chống lại tác động lây lan của các căn bệnh truyền nhiễm này đối với quyền tự chủ đích thực của tinh thần; ông không đề xuất một cái nhìn can đảm nào về sự tự giáo dục để một chủ thể đạo đức nhắm đến như mục đích nhằm loại bỏ trực khuẩn truyền nhiễm này. Với ông, chỉ có cuộc đấu tranh giữa lây nhiễm có lợi và lây nhiễm có hại mà thôi.
Đây cũng chính là bài học đáng lo ngại nhất mà đại dịch corona virus đang diễn ra đem lại cho chúng ta: Con người vốn dĩ ít tự chủ hơn nhiều so với anh ta nghĩ. Anh ta mang theo những thứ được mang đến cho anh ấy. Anh ta nói ra và không biết cái mà anh ta đang nói là gì. Anh ta bị thế chỗ, và đến một lúc nào đó, anh ta biến mất khỏi bề mặt trái đất. Liệu anh ta có thể chịu đựng điều đó mà không phát điên hay không?
(Xuân Cao lược dịch phần cuối từ bản tiếng Đức của Helmut Reuter, Der Mensch wird nicht mehr derselbe gewesen sein: Das ist die Lektion, die das Coronavirus für uns bereithält - Bài viết đăng tải trên Neue Bücher Zeitung (13/03/2020, 16h00).
(TCSH374/04-2020)
VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.
LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.