[if gte mso 9]> Diễn biến hàng chục năm qua ở biển Đông, chuyện những con “tàu lạ” đi lại trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam không còn là sự xa lạ nữa. Những vị khách không mời ấy thật sự đến không vì tấm lòng thành mà bằng những mưu đồ chước quỷ đầy toan tính. Sự kiện 26/5 gần đây nhất, một lần nữa trát thêm vết đen trong quan hệ hai nước và những vấn đề liên quan đến biển Đông. Sáng 26/5, các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động thăm dò khảo sát của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn dầu khí Petro Vietnam. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc xâm nhập, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam. 5 ngày sau, chiều 31/5, 3 tàu quân sự khác thuộc lực lượng hải quân Trung Quốc đã nổ sung uy hiếp, ngăn cản 4 tàu cá của tỉnh Phú Yên trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sự việc diễn ra trong lúc 4 tàu đánh cá của ngư dân TP Tuy Hòa đang hành nghề đánh bắt cá ngừ đại dương ở vị trí 8 độ 56’ vĩ độ bắc, 112 độ 45’ kinh độ đông, cách đảo Đá Đông, quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa khoảng 5 hải lý về phía đông nam, thì 3 chiếc tàu Hải quân Trung Quốc tiến đến. Cách tàu Việt Nam khoảng 40 m, họ đã nổ súng bắn xuống nước uy hiếp, đe dọa không cho ngư dân Việt Nam hành nghề. Trong một diễn biến khác, hôm qua ngày 1/6, anh Huỳnh Công Kính (32 tuổi) ở thôn Đông, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), chủ tàu cá QNg-66369 TS cho biết, tàu cá của anh bị tàu chiến Trung Quốc phá hoại dây lặn, lấy toàn bộ lương thực, thực phẩm và các ngư lưới cụ khác khi tàu đang khai thác hải sản trên vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tính tới thời điểm này, đây là tàu thứ 4 của ngư dân Quảng Ngãi trong tháng 5/2011 bị Trung Quốc trấn lột và phá hoại tài sản khi hành nghề trên vùng biển của Việt Nam. Lại một lần nữa Trung Quốc liên tiếp “ném những hạt sạn gai góc” vào vấn đề biển Đông. Những hành động trên trong những ngày vừa qua đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình, vi phạm Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, trái với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002. Rõ ràng đó là một chuỗi những hành động táo tợn nhất từ trước tới nay của Trung Quốc trong vấn đề chủ quyền lãnh hải, gây tổn hại đến quan hệ giữa hai nước. Phương châm “16 chữ vàng” chẳng còn đáng giá gì ở đây, nó đã hóa thành thứ kim loại rẻ tiền. Trung Quốc đã dùng chiêu cũ “cá lớn nuốt cá bé”, nhân danh bề trên kẻ cả để áp đặt “luật rừng” trong quan hệ quốc tế hiện đại, đi ngược lại hoàn toàn với những mong mỏi của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Một chuỗi sự kiện, hành động liên tiếp ấy không phải là sự tình cờ, ngẫu ý nữa. Trung Quốc đã đi quá xa những gì chúng ta có thể chấp nhận. Thực tế họ muốn chứng minh điều gì khi sử dụng lực lượng tàu hải giám và tàu quân sự trong hai vụ việc vừa rồi với tư cách quốc gia để làm một việc trái với luật pháp và logic thông thường trong ứng xử quốc tế. Việt Nam không phải là một trường hợp đặc biệt, hành động này Trung Quốc cũng đã áp dụng ở vùng biển Philippines vào tháng 3 vừa rồi. Điều này cho thấy Trung Quốc đang muốn chứng minh tuyên bố về lãnh hải “đường lưỡi bò” và điều kiện áp đặt về chủ quyền trên biển Đông mà Quốc vụ viện Trung Quốc đã thông qua vào năm 2009. Mặt khác hành động này cũng là sự “thử gan”, kiểm chứng sự phản ứng của các đối tượng chiến lược cần áp chế quyền lực trên biển của Trung Quốc trong tương lai. Đồng thời, nghiệm xem dư luận quốc tế và các hành động bênh vực của “một nước thứ ba” nào đó trong vấn đề mang tính chất song phương này. Mưu đồ Trung Quốc rất lớn, tham vọng bành trướng bá quyền mang tầm chiến lược thế kỉ, liên quan đến sự tồn tại và chủ quyền biển đảo của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Con rồng đã thức giấc, thực sự vươn mình để quẫy đuôi đạp sóng. Cái bụng Trung Hoa mấy ngàn năm chỉ toàn khói lửa và tương lai sẽ phun ra những gì của quá khứ. Truyền thống “viễn giao cận công” của giới chính trị Trung Quốc từ xưa đến nay luôn là phương châm chiến lược. Diễn biến sự kiện trong những năm đầu thế kỉ này đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên, nếu một chú rồng hành động như vậy thì nó đã tự biến mình thành loài bạch tuột đáng sợ đi hoang, ứng xử hẹp hòi và thiếu văn minh. Một kẻ láng giềng giàu tham lam và táo tợn sẽ hành động gì với “hàng rào” của họ? “Người trong nhà” sẽ không khó để nhận biết. Vậy chúng ta sẽ làm gì? Chỉ có thể nói bằng hai từ “ĐOÀN KẾT” để vạch ra một cơ sách chiến lược đối phó lâu dài và chuẩn bị trước các tình huống xấu nhất có thể. Đó là sức mạnh của giống nòi, là chân lí làm nên lịch sử, quyết định vận mệnh của chúng ta - một dân tộc Việt Nam bền gan, vững chí trước những biến động to lớn của lịch sử. LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG |
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!