Chuyến tầu tốc hành đêm - Con voi

16:06 26/08/2008
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.

Trong số hàng chục tập truyện ngắn, tiểu thuyết và tác phẩm kịch của ông phải kể đến: Những chiếc áo giáp tiện dụng (1953), Mùa hè nóng bỏng (1956), Con voi (1957), Đám cưới ở Atomice (1959), Nhà tiến bộ (1960), Mưa, Cuộc chạy trốn về phuơng Nam (1962), Hai lá thư (1974). Ông là một kịch tác gia tài năng với gần ba chục kịch phẩm, trong đó có những vở như: Nỗi cực của Piotr Ohey, Con gà tây, Một sự kiện may mắn, Kiều dân... Vở kịch nổi tiếng Điệu Tango (1964) của ông đã được rất nhiều nhà hát trên thế giới dàn dựng. Đặc biệt kịch phẩm Mối tình Cờrimê, ra mắt năm 1994, đã đưa ông lên đỉnh cao ngang hàng với Beckett và Durrenmatt, khiến ông trở thành một trong những kịch tác gia hàng đầu thế giới. Slawomir Mrozek còn là một hoạ sĩ vẽ tranh biếm hoạ tài hoa, tranh của ông được các báo rất ưa dùng và được in thành tập. Các tác phẩm văn học của nhà văn Ba Lan được đông đảo bạn đọc mến mộ này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
Dưới đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc của Sông Hương truyện ngắn Chuyến tầu tốc hành đêm và truyện ngắn thứ hai rất nổi tiếng của S. Mrozek - truyện Con voi, qua bản dịch của dịch giả Lê Bá Thự.

Chuyến tầu tốc hành đêm

Năm phút trước khi tầu chạy tôi tìm được khoang của mình trên toa nằm. May cho tôi, chỉ một giường có người, không kể giường của tôi, cho nên tôi mới bụng bảo dạ, đêm nay rồi mình sẽ được ngủ ngon đây. Một gã hành khách đang nằm trên chiếc giường thứ hai, gã đắp chăn tới sát cằm, cái mũi nhọn hoắt và nhợt nhạt của gã trồi hẳn lên.
Một lát sau tôi chẳng thèm để mắt tới gã nữa, bởi khi tôi nói: “Xin chào” thì chả thấy gã trả lời chi cả - càng hay, thế có nghĩa là gã đã ngủ rồi, tôi khỏi phải làm nghĩa vụ của một bạn đồng hành - tôi ngồi xuống chiếc giường dưới, đoạn thay quần áo.
- Anh có hút thuốc không đấy? - tôi nghe giọng nói từ giường trên.
- Cám ơn, không.
- Tôi không chịu được khói thuốc đâu.
- Ông có thể yên tâm, tôi không hút thuốc.
- Anh mà hút thì tôi không tài nào chịu nổi đâu. Phổi tôi nhậy cảm lắm.
- Tôi thông cảm, nhưng ông khỏi lo.
- Hay là anh vẫn hút, anh chỉ cai lúc này thôi. Nửa đêm phát thèm thì anh không nhịn được nữa.
- Không thể có chuyện đó, vì chưa bao giờ tôi hút thuốc.
Gã im bặt. Tôi cởi tất.
- Hay là anh bắt đầu.
- Cái gì cơ?
- Hút thuốc. Có ối người mãi tận về già mới bắt đầu hút thuốc cơ đấy.
- Tôi không có ý định như vậy.
- Nói một đường, nhưng sau đó có khi lại làm một nẻo cũng nên. Tôi là tôi không có chịu được như thế đâu nhá.
- Vả lại tôi làm gì có thuốc lá trong người hả ông.
- Thì anh đi xin của nhân viên kiểm tra vé tầu.
- Tôi làm sao mà biết được, ông ta có hút thuốc hay không.
- Thế ông ấy mà hút thì sao nào?
- Thì lúc đó tôi sẽ ra ngoài hành lang, không được hút thuốc trong khoang tầu cơ mà.
- Lúc đó cửa ra hành lang mà bị kẹt thì sao?
- Chẳng sao cả, vì tôi đang không hút thuốc, chưa bao giờ hút thuốc và không có ý định bắt đầu hút thuốc. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi nói “chúc ông ngủ ngon” khí sớm, vì còn chiếc áo sơ mi và quần đông xuân tôi chưa thay. Có điều tôi muốn cắt phăng câu chuyện.
Tôi đạt được ý đồ của mình, phải cái chẳng được bao lâu. Tôi vừa mới kịp cởi xong chiếc áo sơ mi thì gã kia lại lên tiếng.
- Anh không tắt đèn hả?
- Tôi khắc tắt, nhưng phải thay xong quần áo cái đã.
 - Có một số người thích đọc sách trước lúc đi ngủ, còn tôi thì lúc đó không ngủ được. Tôi nhậy cảm với ánh sáng ghê lắm.
 - Tôi mù chữ, thưa ông.
 - Thì anh có thể xem tranh.
 - Làm gì có hoạ báo mà xem.
 - Vậy còn ảnh thì sao? Làm gì anh chẳng có ảnh vợ trong người, anh không ngắm ảnh vợ mình trước khi đi ngủ đấy chắc?
 - Tôi ly hôn rồi.
 - Thì còn các con.
 - Tôi không có con.
 - Ai mà chả có bà con ruột rà.
 - Không, tôi không hề có một tấm ảnh nào cả. Ông có muốn kiểm tra người tôi không nào?
 - Một khi không có ảnh thì nhất định anh sẽ đi soi gương để xem mụn mọc trên mặt mình, hoặc là... Còn tôi không chịu nổi...
 Gã không kịp nói hết câu, vì tôi tắt đèn. Gã thở dài, khoang tầu im lặng, nhưng tôi vừa vào giấc chiêm bao thì một câu hỏi đập vào tai tôi:
 - Anh không ngáy hay sao?
 - Không.
 - Vì sao?
 - Vốn dĩ là vậy.
 - Lạ thật, nhìn chung con người ta ai mà chẳng ngáy, mà ngáy là làm phiền tôi. Tai tôi cực kỳ nhậy cảm.
 - Rất tiếc, tôi chẳng thể chiều tai ông.
 - Anh có dám chắc là anh không ngáy hay không nào?
 - Chắc hơn cả đinh đóng cột là đằng khác. Có điều bây giờ thì xin ông hãy cho phép tôi chợp mắt, tôi mệt rũ người rồi.
 Gã thuận ý. Thình lình ánh đèn chói mắt và tay người giật giật vai tôi làm tôi tỉnh giấc.
 - Anh bạn ơi, anh bạn ơi!
 Tôi nhìn thấy cái mũi nhọn hoắt của gã gí sát mặt tôi. Từ giường trên gã nhoài người xuống phía dưới, gã kéo cánh tay áo ngủ của tôi.
 - Anh bạn ơi, anh mà không hút thuốc, không ngáy và không để đèn sáng thì đích thực anh làm cái gì nào?
 - ông muốn biết hả?
 - Vâng! Đường nào thì anh cũng phải làm cái gì đó chứ, chỉ tội tôi chưa biết đó là cái gì thôi. Điều này khiến tôi trằn trọc, không ngủ được.
 - Tôi bóp cổ!
 - Cái gì cơ?
 - Tôi bóp cổ. Bằng tay không, hoặc dùng dây. ông không nghe người ta nói về “tên bóp cổ người trên tầu tốc hành đêm” khét tiếng hay sao? Hắn thường hoạt động trên tuyến đường này. Hắn mua vé toa nằm như mọi hành khách vô tội, đến nửa đêm thì hắn đi bóp cổ người.
 Đương nhiên hắn thích bóp cổ vào lúc trong khoang tầu ngoài hắn và nạn nhân ra không có một ai. Đó là tên hung đồ, và tên hung đồ này chính là tôi.
 Tôi được yên thân cho tới sáng. Lúc rạng đông, tôi ra ngoài đi vệ sinh, tôi bắt gặp gã ngoài hành lang, mặc áo khoác, mang theo va li.
 Suốt đêm qua gã ngồi lì trên chiếc va li của mình. Nom thấy tôi gã đứng dậy, lôi chiếc va li theo sau, lảng sang đầu bên kia hành lang toa tầu.
 Tôi thấy mủi lòng. Cuộc sống của những kẻ nhậy cảm thật chẳng dễ dàng chi.

Con voi

 Thì ra ông giám đốc vườn bách thú là kẻ hám danh! Ông coi thú vật là nấc thang thăng quan tiến chức. Ông cũng chẳng đoái hoài gì tới nhiệm vụ của cơ quan mình là giáo dục thế hệ trẻ. Hươu cao cổ trong vườn của ông cổ ngắn củn, chồn thậm chí chẳng có hang, lũ cu li dửng dưng với mọi thứ, thảng hoặc mới cất tiếng, chừng như miễn cưỡng. Những khiếm khuyết này nhẽ ra không đáng có, nhất hạng hàng ngày có nhiều đoàn học sinh đến tham quan vườn bách thú.
 Đây là một vườn bách thú tỉnh lẻ, còn thiếu một số loài thú cơ bản, trong đó có voi. Không có voi người ta đành nuôi tạm ba ngàn con thỏ nhà để thay thế. Tuy nhiên, do đất nước ngày càng phát triển - người ta đã bổ sung dần, theo kế hoạch, những thứ còn thiếu. Thế rồi đến lượt bổ sung voi. Vào dịp Quốc khánh, vườn bách thú nhận được thông báo, việc phân phối voi đã giải quyết xong. Nhân viên vườn bách thú, những người hết mực tận tuỵ với công việc, vui như mở cờ trong bụng. Cho nên họ càng lấy làm lạ khi hay tin, ông giám đốc đã gửi công văn về Vacsava tự nguyện không nhận suất voi được phân phối, đồng thời ông đệ trình kế hoạch kiếm voi bằng phương pháp kinh tế.
 “Tôi và toàn thể cán bộ công nhân viên, - ông viết, - hiểu rằng, voi là một gánh rất nặng đè lên vai công nhân mỏ và công nhân luyện kim nước ta. Với lòng mong muốn giảm giá thành sản xuất, tôi đề nghị cho thay con voi đã nêu trong công văn này bằng một con voi tự có. Chúng tôi có thể chế tạo một con voi đúng kích cỡ bằng cao su, bơm không khí vào rồi đặt nó vào chuồng. Con voi này sẽ được sơn, vẽ rất cẩn thận để nó không khác gì voi thật, cho dù quan sát gần. Ta cần nhớ rằng, voi là loài thú nặng nề, cho nên nó không hề nhẩy, không hề chạy, không hề đầm mình. Trong chuồng chúng tôi sẽ cho treo một tấm biển giải thích, đây là một loài voi cực nặng. Khoản tiền tiết kiệm được do thực hiện biện pháp nói trên chúng tôi xin chuyển khoản để chế tạo một máy bay phản lực, hoặc tu sửa các di tích nhà thờ. Tôi xin lưu ý, sáng kiến cũng như dự án đã được soạn thảo này là một sự đóng góp khiêm tốn của tôi vào công cuộc lao động và đấu tranh chung. Kính thư.” - và chữ ký.
Rõ ràng là bức công văn đã tới tay một quan chức thờ ơ và quan liêu trong công việc của mình, không đi vào thực chất của vấn đề, chỉ nghĩ đơn thuần tới việc hạ giá thành sản xuất - ông ta đã chấp thuận kế hoạch. Nhận được lời phúc đáp thuận lợi, ông giám đốc vườn bách thú bèn cho làm một cái vỏ rất to bằng cao su, sau đó bơm đầy không khí. Hai nhân viên văn thư được phân công làm nhiệm vụ bơm không khí vào vỏ từ hai đầu đối diện nhau. Để giữ bí mật tuyệt đối, công việc phải được hoàn tất trong vòng một đêm. Dân thị xã họ đã hay tin, voi đang trên đường về, cho nên họ nôn nóng được đến xem. Thêm nữa, ông giám đốc bắt phải khẩn trương, vì ông đinh ninh sẽ có thưởng, khi sáng kiến của ông thành công.
Họ đóng kín cửa ngôi nhà tạm, trong đó có dụng cụ cầm tay, rồi bắt đầu bơm. Tuy nhiên, sau hai giờ làm việc cật lực họ nhận ra rằng, cái vỏ màu xám chỉ  phình lên phía trên nền nhà được một chút, tạo thành một cái hình củ khoai đại cỡ, bèn bẹt, nom chẳng thấy có nét gì giống voi cả. Đêm đã về khuya, tiếng người im bặt, từ phía vườn bách thú chỉ nghe thấy tiếng tru của chó sói. Hai nhân viên văn thư mệt nhoài, dừng tay nghỉ chốc lát, nhưng vẫn phải canh chừng để không khí đã bơm không bị xì ra. Họ là hai nhân viên luống tuổi, vốn không quen làm những công việc như thế này.
Cứ cung cách này thì dễ chừng đến sáng mai bọn mình mới xong việc - một trong hai nhân viên nói. - Lúc về nhà biết ăn nói với bà xã thế nào đây? Bà ấy đâu có chịu tin, nếu mình phân bua, suốt đêm qua anh phải bơm voi.
- Đúng, - nhân viên thứ hai tán đồng. - Mấy khi người ta lại bơm voi. Tất cả chỉ tại ông giám đốc quá tả của nhà mình.
Bơm tiếp được độ nửa giờ thì họ mệt lử. Thân voi đã phình ra, nhưng còn lâu hình dáng của nó mới hiện rõ.
- ì ạch lắm, - nhân viên thứ nhất nói.
- Đúng thế, - nhân viên thứ hai công nhận. - Thật là gay go. Thôi, nghỉ tay một lát đã. Đang giải lao, một nhân viên bỗng phát hiện có cái vòi ga trồi ra ngoài tường. Anh ta chợt nghĩ, liệu có thể bơm ga cho voi căng ra, thay vì bơm không khí. Nhân viên này thổ lộ ý định của mình với anh bạn.
Họ quyết định làm thử. Họ cắm vòi ga vào voi, và cả hai mừng rỡ khi chỉ sau chốc lát giữa căn lều đã thấy hiện ra một con voi, cao ngất nghểu đến tận sát nóc. Nom y hệt voi thật. Vai nó lừng lững, chân to như cột nhà, tai cực bự và cái vòi dính chặt. Ông giám đốc vườn bách thú, một con người không chịu tính hết mọi nhẽ, chỉ loay hoay với tham vọng có một con voi thật nổi trội trong vườn - đã tìm mọi cách để làm cho kỳ được một mô hình cực lớn.
- Tuyệt, - anh nhân viên đã nẩy ra ý định bơm ga tuyên bố. - Chúng mình có thể về nhà được rồi.
Sáng sớm hôm sau người ta chuyển voi ra khu chuồng rào đã chuẩn bị sẵn ở trung tâm của vườn, gần chồng khỉ. Có những tảng đá tự nhiên làm nền, nên nom con voi rất dữ tợn. Đằng trước nó người ta đặt tấm biển: “Loài voi cực nặng - nói chung nó không đi lại”. Hôm đó, các em học sinh một trường ở thị xã, do một giáo viên hướng dẫn, là những người thuộc diện những vị khách đầu tiên đến xem voi. Thầy giáo muốn dạy các em bài học về voi bằng phương pháp trực quan. Thầy tập trung cả lớp trước con voi và bắt đầu giảng bài:
- Voi là loài ăn thực vật. Nó dùng vòi nhổ các cây nhỏ và non, rồi ăn hết lá.
Toán học trò đang đứng xem voi hết đỗi ngạc nhiên. Các em đợi để được thấy voi nhổ một cây con nào đó, nhưng con voi chỉ đứng tại chỗ ở bên trong hàng rào, nó không hề nhức nhích.
- Voi thuộc dòng giống mamút nay đã tuyệt chủng. Cho nên không có gì là lạ khi nó là loài vật to nhất sống trên đất liền.
Mấy học trò chăm học ghi ghi, chép chép.
-... Chỉ có cá voi là to hơn voi, nhưng loài cá này sống dưới biển. Cho nên ta có thể mạnh dạn nói rằng, voi là chúa sơn lâm.
Một làn gió nhẹ thổi qua vườn.
-... Trọng lượng của một con voi lớn dao động trong khoảng bốn đến sáu ngàn kilôgam.
Đúng lúc này con voi rùng mình rồi bay lên không trung. Nó tròng trành bên trên mặt đất một lát, sau đó con voi được gió nâng lao vút lên cao, phơi bầy toàn bộ thân xác to kềnh của mình trên nền trời xanh. Nó vẫn còn bay lên cao một lúc nữa, chìa về phía người xem ở bên dưới bốn cái hình tròn của hai đôi bàn chân sắp đều nhau, cái bụng to đùng và đầu mút của chiếc vòi. Tiếp đó, gió đẩy voi trôi ngang bên trên vườn, rồi nó mất hút ở trên cao, dằng sau mấy ngọn cây. Lũ khỉ ngơ ngác nhìn lên trời.
Người ta đã tìm thấy con voi ở khu vườn thực vật gần đó, nơi nó rơi xuống, bị vỡ toác do vướng gai xương rồng.
Còn toán học trò có mặt trong vườn bách thú bữa đó, bỗng dưng bỏ học, sinh hư. Hình như chúng còn uống rượu, đập phá cửa kính. Chung cục, chúng chẳng tin là có voi.

LÊ BÁ THỰ dịch
(từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.

  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".