Chuyến tầu tốc hành đêm - Con voi

16:06 26/08/2008
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.

Trong số hàng chục tập truyện ngắn, tiểu thuyết và tác phẩm kịch của ông phải kể đến: Những chiếc áo giáp tiện dụng (1953), Mùa hè nóng bỏng (1956), Con voi (1957), Đám cưới ở Atomice (1959), Nhà tiến bộ (1960), Mưa, Cuộc chạy trốn về phuơng Nam (1962), Hai lá thư (1974). Ông là một kịch tác gia tài năng với gần ba chục kịch phẩm, trong đó có những vở như: Nỗi cực của Piotr Ohey, Con gà tây, Một sự kiện may mắn, Kiều dân... Vở kịch nổi tiếng Điệu Tango (1964) của ông đã được rất nhiều nhà hát trên thế giới dàn dựng. Đặc biệt kịch phẩm Mối tình Cờrimê, ra mắt năm 1994, đã đưa ông lên đỉnh cao ngang hàng với Beckett và Durrenmatt, khiến ông trở thành một trong những kịch tác gia hàng đầu thế giới. Slawomir Mrozek còn là một hoạ sĩ vẽ tranh biếm hoạ tài hoa, tranh của ông được các báo rất ưa dùng và được in thành tập. Các tác phẩm văn học của nhà văn Ba Lan được đông đảo bạn đọc mến mộ này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
Dưới đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc của Sông Hương truyện ngắn Chuyến tầu tốc hành đêm và truyện ngắn thứ hai rất nổi tiếng của S. Mrozek - truyện Con voi, qua bản dịch của dịch giả Lê Bá Thự.

Chuyến tầu tốc hành đêm

Năm phút trước khi tầu chạy tôi tìm được khoang của mình trên toa nằm. May cho tôi, chỉ một giường có người, không kể giường của tôi, cho nên tôi mới bụng bảo dạ, đêm nay rồi mình sẽ được ngủ ngon đây. Một gã hành khách đang nằm trên chiếc giường thứ hai, gã đắp chăn tới sát cằm, cái mũi nhọn hoắt và nhợt nhạt của gã trồi hẳn lên.
Một lát sau tôi chẳng thèm để mắt tới gã nữa, bởi khi tôi nói: “Xin chào” thì chả thấy gã trả lời chi cả - càng hay, thế có nghĩa là gã đã ngủ rồi, tôi khỏi phải làm nghĩa vụ của một bạn đồng hành - tôi ngồi xuống chiếc giường dưới, đoạn thay quần áo.
- Anh có hút thuốc không đấy? - tôi nghe giọng nói từ giường trên.
- Cám ơn, không.
- Tôi không chịu được khói thuốc đâu.
- Ông có thể yên tâm, tôi không hút thuốc.
- Anh mà hút thì tôi không tài nào chịu nổi đâu. Phổi tôi nhậy cảm lắm.
- Tôi thông cảm, nhưng ông khỏi lo.
- Hay là anh vẫn hút, anh chỉ cai lúc này thôi. Nửa đêm phát thèm thì anh không nhịn được nữa.
- Không thể có chuyện đó, vì chưa bao giờ tôi hút thuốc.
Gã im bặt. Tôi cởi tất.
- Hay là anh bắt đầu.
- Cái gì cơ?
- Hút thuốc. Có ối người mãi tận về già mới bắt đầu hút thuốc cơ đấy.
- Tôi không có ý định như vậy.
- Nói một đường, nhưng sau đó có khi lại làm một nẻo cũng nên. Tôi là tôi không có chịu được như thế đâu nhá.
- Vả lại tôi làm gì có thuốc lá trong người hả ông.
- Thì anh đi xin của nhân viên kiểm tra vé tầu.
- Tôi làm sao mà biết được, ông ta có hút thuốc hay không.
- Thế ông ấy mà hút thì sao nào?
- Thì lúc đó tôi sẽ ra ngoài hành lang, không được hút thuốc trong khoang tầu cơ mà.
- Lúc đó cửa ra hành lang mà bị kẹt thì sao?
- Chẳng sao cả, vì tôi đang không hút thuốc, chưa bao giờ hút thuốc và không có ý định bắt đầu hút thuốc. Chúc ông ngủ ngon.
Tôi nói “chúc ông ngủ ngon” khí sớm, vì còn chiếc áo sơ mi và quần đông xuân tôi chưa thay. Có điều tôi muốn cắt phăng câu chuyện.
Tôi đạt được ý đồ của mình, phải cái chẳng được bao lâu. Tôi vừa mới kịp cởi xong chiếc áo sơ mi thì gã kia lại lên tiếng.
- Anh không tắt đèn hả?
- Tôi khắc tắt, nhưng phải thay xong quần áo cái đã.
 - Có một số người thích đọc sách trước lúc đi ngủ, còn tôi thì lúc đó không ngủ được. Tôi nhậy cảm với ánh sáng ghê lắm.
 - Tôi mù chữ, thưa ông.
 - Thì anh có thể xem tranh.
 - Làm gì có hoạ báo mà xem.
 - Vậy còn ảnh thì sao? Làm gì anh chẳng có ảnh vợ trong người, anh không ngắm ảnh vợ mình trước khi đi ngủ đấy chắc?
 - Tôi ly hôn rồi.
 - Thì còn các con.
 - Tôi không có con.
 - Ai mà chả có bà con ruột rà.
 - Không, tôi không hề có một tấm ảnh nào cả. Ông có muốn kiểm tra người tôi không nào?
 - Một khi không có ảnh thì nhất định anh sẽ đi soi gương để xem mụn mọc trên mặt mình, hoặc là... Còn tôi không chịu nổi...
 Gã không kịp nói hết câu, vì tôi tắt đèn. Gã thở dài, khoang tầu im lặng, nhưng tôi vừa vào giấc chiêm bao thì một câu hỏi đập vào tai tôi:
 - Anh không ngáy hay sao?
 - Không.
 - Vì sao?
 - Vốn dĩ là vậy.
 - Lạ thật, nhìn chung con người ta ai mà chẳng ngáy, mà ngáy là làm phiền tôi. Tai tôi cực kỳ nhậy cảm.
 - Rất tiếc, tôi chẳng thể chiều tai ông.
 - Anh có dám chắc là anh không ngáy hay không nào?
 - Chắc hơn cả đinh đóng cột là đằng khác. Có điều bây giờ thì xin ông hãy cho phép tôi chợp mắt, tôi mệt rũ người rồi.
 Gã thuận ý. Thình lình ánh đèn chói mắt và tay người giật giật vai tôi làm tôi tỉnh giấc.
 - Anh bạn ơi, anh bạn ơi!
 Tôi nhìn thấy cái mũi nhọn hoắt của gã gí sát mặt tôi. Từ giường trên gã nhoài người xuống phía dưới, gã kéo cánh tay áo ngủ của tôi.
 - Anh bạn ơi, anh mà không hút thuốc, không ngáy và không để đèn sáng thì đích thực anh làm cái gì nào?
 - ông muốn biết hả?
 - Vâng! Đường nào thì anh cũng phải làm cái gì đó chứ, chỉ tội tôi chưa biết đó là cái gì thôi. Điều này khiến tôi trằn trọc, không ngủ được.
 - Tôi bóp cổ!
 - Cái gì cơ?
 - Tôi bóp cổ. Bằng tay không, hoặc dùng dây. ông không nghe người ta nói về “tên bóp cổ người trên tầu tốc hành đêm” khét tiếng hay sao? Hắn thường hoạt động trên tuyến đường này. Hắn mua vé toa nằm như mọi hành khách vô tội, đến nửa đêm thì hắn đi bóp cổ người.
 Đương nhiên hắn thích bóp cổ vào lúc trong khoang tầu ngoài hắn và nạn nhân ra không có một ai. Đó là tên hung đồ, và tên hung đồ này chính là tôi.
 Tôi được yên thân cho tới sáng. Lúc rạng đông, tôi ra ngoài đi vệ sinh, tôi bắt gặp gã ngoài hành lang, mặc áo khoác, mang theo va li.
 Suốt đêm qua gã ngồi lì trên chiếc va li của mình. Nom thấy tôi gã đứng dậy, lôi chiếc va li theo sau, lảng sang đầu bên kia hành lang toa tầu.
 Tôi thấy mủi lòng. Cuộc sống của những kẻ nhậy cảm thật chẳng dễ dàng chi.

Con voi

 Thì ra ông giám đốc vườn bách thú là kẻ hám danh! Ông coi thú vật là nấc thang thăng quan tiến chức. Ông cũng chẳng đoái hoài gì tới nhiệm vụ của cơ quan mình là giáo dục thế hệ trẻ. Hươu cao cổ trong vườn của ông cổ ngắn củn, chồn thậm chí chẳng có hang, lũ cu li dửng dưng với mọi thứ, thảng hoặc mới cất tiếng, chừng như miễn cưỡng. Những khiếm khuyết này nhẽ ra không đáng có, nhất hạng hàng ngày có nhiều đoàn học sinh đến tham quan vườn bách thú.
 Đây là một vườn bách thú tỉnh lẻ, còn thiếu một số loài thú cơ bản, trong đó có voi. Không có voi người ta đành nuôi tạm ba ngàn con thỏ nhà để thay thế. Tuy nhiên, do đất nước ngày càng phát triển - người ta đã bổ sung dần, theo kế hoạch, những thứ còn thiếu. Thế rồi đến lượt bổ sung voi. Vào dịp Quốc khánh, vườn bách thú nhận được thông báo, việc phân phối voi đã giải quyết xong. Nhân viên vườn bách thú, những người hết mực tận tuỵ với công việc, vui như mở cờ trong bụng. Cho nên họ càng lấy làm lạ khi hay tin, ông giám đốc đã gửi công văn về Vacsava tự nguyện không nhận suất voi được phân phối, đồng thời ông đệ trình kế hoạch kiếm voi bằng phương pháp kinh tế.
 “Tôi và toàn thể cán bộ công nhân viên, - ông viết, - hiểu rằng, voi là một gánh rất nặng đè lên vai công nhân mỏ và công nhân luyện kim nước ta. Với lòng mong muốn giảm giá thành sản xuất, tôi đề nghị cho thay con voi đã nêu trong công văn này bằng một con voi tự có. Chúng tôi có thể chế tạo một con voi đúng kích cỡ bằng cao su, bơm không khí vào rồi đặt nó vào chuồng. Con voi này sẽ được sơn, vẽ rất cẩn thận để nó không khác gì voi thật, cho dù quan sát gần. Ta cần nhớ rằng, voi là loài thú nặng nề, cho nên nó không hề nhẩy, không hề chạy, không hề đầm mình. Trong chuồng chúng tôi sẽ cho treo một tấm biển giải thích, đây là một loài voi cực nặng. Khoản tiền tiết kiệm được do thực hiện biện pháp nói trên chúng tôi xin chuyển khoản để chế tạo một máy bay phản lực, hoặc tu sửa các di tích nhà thờ. Tôi xin lưu ý, sáng kiến cũng như dự án đã được soạn thảo này là một sự đóng góp khiêm tốn của tôi vào công cuộc lao động và đấu tranh chung. Kính thư.” - và chữ ký.
Rõ ràng là bức công văn đã tới tay một quan chức thờ ơ và quan liêu trong công việc của mình, không đi vào thực chất của vấn đề, chỉ nghĩ đơn thuần tới việc hạ giá thành sản xuất - ông ta đã chấp thuận kế hoạch. Nhận được lời phúc đáp thuận lợi, ông giám đốc vườn bách thú bèn cho làm một cái vỏ rất to bằng cao su, sau đó bơm đầy không khí. Hai nhân viên văn thư được phân công làm nhiệm vụ bơm không khí vào vỏ từ hai đầu đối diện nhau. Để giữ bí mật tuyệt đối, công việc phải được hoàn tất trong vòng một đêm. Dân thị xã họ đã hay tin, voi đang trên đường về, cho nên họ nôn nóng được đến xem. Thêm nữa, ông giám đốc bắt phải khẩn trương, vì ông đinh ninh sẽ có thưởng, khi sáng kiến của ông thành công.
Họ đóng kín cửa ngôi nhà tạm, trong đó có dụng cụ cầm tay, rồi bắt đầu bơm. Tuy nhiên, sau hai giờ làm việc cật lực họ nhận ra rằng, cái vỏ màu xám chỉ  phình lên phía trên nền nhà được một chút, tạo thành một cái hình củ khoai đại cỡ, bèn bẹt, nom chẳng thấy có nét gì giống voi cả. Đêm đã về khuya, tiếng người im bặt, từ phía vườn bách thú chỉ nghe thấy tiếng tru của chó sói. Hai nhân viên văn thư mệt nhoài, dừng tay nghỉ chốc lát, nhưng vẫn phải canh chừng để không khí đã bơm không bị xì ra. Họ là hai nhân viên luống tuổi, vốn không quen làm những công việc như thế này.
Cứ cung cách này thì dễ chừng đến sáng mai bọn mình mới xong việc - một trong hai nhân viên nói. - Lúc về nhà biết ăn nói với bà xã thế nào đây? Bà ấy đâu có chịu tin, nếu mình phân bua, suốt đêm qua anh phải bơm voi.
- Đúng, - nhân viên thứ hai tán đồng. - Mấy khi người ta lại bơm voi. Tất cả chỉ tại ông giám đốc quá tả của nhà mình.
Bơm tiếp được độ nửa giờ thì họ mệt lử. Thân voi đã phình ra, nhưng còn lâu hình dáng của nó mới hiện rõ.
- ì ạch lắm, - nhân viên thứ nhất nói.
- Đúng thế, - nhân viên thứ hai công nhận. - Thật là gay go. Thôi, nghỉ tay một lát đã. Đang giải lao, một nhân viên bỗng phát hiện có cái vòi ga trồi ra ngoài tường. Anh ta chợt nghĩ, liệu có thể bơm ga cho voi căng ra, thay vì bơm không khí. Nhân viên này thổ lộ ý định của mình với anh bạn.
Họ quyết định làm thử. Họ cắm vòi ga vào voi, và cả hai mừng rỡ khi chỉ sau chốc lát giữa căn lều đã thấy hiện ra một con voi, cao ngất nghểu đến tận sát nóc. Nom y hệt voi thật. Vai nó lừng lững, chân to như cột nhà, tai cực bự và cái vòi dính chặt. Ông giám đốc vườn bách thú, một con người không chịu tính hết mọi nhẽ, chỉ loay hoay với tham vọng có một con voi thật nổi trội trong vườn - đã tìm mọi cách để làm cho kỳ được một mô hình cực lớn.
- Tuyệt, - anh nhân viên đã nẩy ra ý định bơm ga tuyên bố. - Chúng mình có thể về nhà được rồi.
Sáng sớm hôm sau người ta chuyển voi ra khu chuồng rào đã chuẩn bị sẵn ở trung tâm của vườn, gần chồng khỉ. Có những tảng đá tự nhiên làm nền, nên nom con voi rất dữ tợn. Đằng trước nó người ta đặt tấm biển: “Loài voi cực nặng - nói chung nó không đi lại”. Hôm đó, các em học sinh một trường ở thị xã, do một giáo viên hướng dẫn, là những người thuộc diện những vị khách đầu tiên đến xem voi. Thầy giáo muốn dạy các em bài học về voi bằng phương pháp trực quan. Thầy tập trung cả lớp trước con voi và bắt đầu giảng bài:
- Voi là loài ăn thực vật. Nó dùng vòi nhổ các cây nhỏ và non, rồi ăn hết lá.
Toán học trò đang đứng xem voi hết đỗi ngạc nhiên. Các em đợi để được thấy voi nhổ một cây con nào đó, nhưng con voi chỉ đứng tại chỗ ở bên trong hàng rào, nó không hề nhức nhích.
- Voi thuộc dòng giống mamút nay đã tuyệt chủng. Cho nên không có gì là lạ khi nó là loài vật to nhất sống trên đất liền.
Mấy học trò chăm học ghi ghi, chép chép.
-... Chỉ có cá voi là to hơn voi, nhưng loài cá này sống dưới biển. Cho nên ta có thể mạnh dạn nói rằng, voi là chúa sơn lâm.
Một làn gió nhẹ thổi qua vườn.
-... Trọng lượng của một con voi lớn dao động trong khoảng bốn đến sáu ngàn kilôgam.
Đúng lúc này con voi rùng mình rồi bay lên không trung. Nó tròng trành bên trên mặt đất một lát, sau đó con voi được gió nâng lao vút lên cao, phơi bầy toàn bộ thân xác to kềnh của mình trên nền trời xanh. Nó vẫn còn bay lên cao một lúc nữa, chìa về phía người xem ở bên dưới bốn cái hình tròn của hai đôi bàn chân sắp đều nhau, cái bụng to đùng và đầu mút của chiếc vòi. Tiếp đó, gió đẩy voi trôi ngang bên trên vườn, rồi nó mất hút ở trên cao, dằng sau mấy ngọn cây. Lũ khỉ ngơ ngác nhìn lên trời.
Người ta đã tìm thấy con voi ở khu vườn thực vật gần đó, nơi nó rơi xuống, bị vỡ toác do vướng gai xương rồng.
Còn toán học trò có mặt trong vườn bách thú bữa đó, bỗng dưng bỏ học, sinh hư. Hình như chúng còn uống rượu, đập phá cửa kính. Chung cục, chúng chẳng tin là có voi.

LÊ BÁ THỰ dịch
(từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.

  • Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.

  • Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.

  • LGT: Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.

  • LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.