Chùm thơ Phùng Sơn

08:33 08/06/2017


PHÙNG SƠN

Ảnh: internet

Lời gọi của Giàng

Đêm trăng sáng
Đêm thắp lên nền trời
Lửa rượu và ánh mắt.
Tiếng phèn la xập xập xoàng
Tiếng trống cồng gọi một góc trời inh ỏi
Tiếng khóc trên sàn nhà tối mịt
Liên hồi gọi hồn dí vào đêm đen
Khoảnh khắc tê dại của đàn bò
Ngó sững vào mùa trăng
Nỗi phập phồng của ché rượu quý
Say khướt trong màu mắt


Thần hồn của người đang sống vây quanh sự chết!
Đóm lửa bập bùng nổ
Khập khiểng dú đẩy đoàn người đi theo nhịp trống
Tiếng gọi lửa xập xập xoàng
Tiếng trống dội bốn khu rừng
Tiếng trẻ thơ đùa nghịch
Cười
Hát
Khóc thét lên trong đêm


Người đã chết
Bà chị điên giã đều tay
Nụ cười từ cối gạo réo lên thất vọng


Đêm trăng sáng
Lửa rượu và ánh mắt của người còn sống
Đang đếm lại từng nhịp điệu
Bao quanh người đã chết.

                                Chư Đrăng1985


Khi cuộc sống mở ra

Khi cuộc sống mở ra
Thì những bàn chân bước tới
Để lại là những chiếc khố cuối thời
Nỗi trần truồng man dại
Đã lãng quên trên khuôn ngực người đàn bà Ja Rai


Khi cuộc sống mở ra
Khu rừng hoang bỗng trở nên sôi động
Bề sâu của lồng đất phập phòng
Thú dữ tìm về cội nguồn yên tĩnh


Khi cuộc sống đến gần
Gần như bàn tay sờ vào con nước
Nỗi mát rượi từ đáy sâu hạnh phúc
Hắt lên làm choáng ngợp khung trời


Khi cuộc sống mở ra
Trai gái tìm nhau trong ánh sáng
Lời hát ngọt như dòng nước sớm
Ân ái trao nhau những bàn chân kế tục


Khi cuộc sống mở ra
Những bàn tay trẻ thơ giang rộng
Và chiều sâu của mỗi con đường
Được mở ra như lòng người Ja Rai.

                                             Plây Beng 1984

(TCSH339/05-2017)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.