NGUYỄN ĐỨC SƠN
Bến
Qua bao đèo cao, vực sâu heo hút con đi
Cái để lại còn muôn năm mới
Ba lô mang ánh trăng vàng, hành trang bên suối
Ý chí mong về đến bến
Giải phóng quê hương
Theo suối chảy, sá gì nhọc nhằn
Để con rèn đôi chân mong về bờ bãi
Núi che, có sức mẹ đùm cho con gạo, muối
Niềm tin đó, rắn rỏi đôi vai
Trường Sơn và ánh trăng đậu trên vành mũ tai bèo
Khát vọng con đường
Lời hứa con muốn dành cho mẹ
Ngày ấy luồn sâu, bản trú vách đá hẻo
viên thuốc ký ninh còn thiếu
Đôi dép nối quai, con sốt rét
vắt muỗi, cánh rừng, mùi hăng nồng chất độc hoá học*
Nước da con xanh như lá rừng
Đôi chân run, vết thương chưa lành…
Con nhớ như có đại ngàn che chở
Được bàn tay mẹ nâng thấu bờ vai cứng cỏi
núi suối dài như tình mẹ
tiễn đêm đoàn quân vào trận
Ba lô con chất đầy
Dẫu gió mưa mù trời
Kháng chiến trường kỳ
Niềm tin mẹ cho con từ bếp lửa
Từ độ ấy lời thề sắt son
Gói chặt, chất trên vai ý chí sông núi
thấm vào ngực con
Niềm tin như rừng lim, rừng sến, kiền kiền
Dòng suối A Roàng, A Đớt, A Ngo
Hồng Hạ, xã Nhâm, A Lin
Cuội đá màu thủy chung
và đoàn quân cập bến vào trận đánh cuối cùng…
Từ bến Hương giang
Con nhớ da diết mẹ ơi!
-----------------
* Đại ngàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời kỳ kháng chiến là vùng bị rải chất độc da cam của đế quốc Mỹ.
Mùa đông về nhen bếp lửa
Mùa đông cửa biển
Gió đông bắc trở mùa
Con thuyền nằm bến mơ ra khơi
Hằn vết chân chim chạy dài
Cạn bờ lên bọt nước
Nỗi thấu tràn mưa nặng hạt
Vớt rêu rong lạnh giá
Ai thấu mùa đông buồn vui
Cửa biển lo chăm chút, mùa dằng dịt sợi neo
Bồn chồn đun reo niềm suy nghĩ
Nghe cơn áp thấp mà mong đổi mùa
Mùa đông gió khô mùi bùn đầm phá
Biển ngả nghiêng sóng dào lên
Nỗi thèm đi biển bươn chao
Mùa cho lưới vắt sào
Va trắng mạn thuyền
Con đường về bến chợ
Xa khơi mùa đông ngóng đợi
Khơi xa biển mong ước chong bờ
Chở thấu nỗi sóng yên
Rừng phi lao cong ngọn gió ào
Mùa đông về nhen bếp lửa thuyền ơi!
(TCSH429/11-2024)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi