LTS: Những giọt thơ về Huế như một thoáng mưa bóng mây, tự nhiên rơi và đem lại cảm giác lạ lẫm. Huế hiện lên cũng là lạ, như cô gái bước ra từ đóa sen thiền. Sông Hương xin giới thiệu những bài thơ vừa mới gửi đến của Lam Bình (tên thật là Hoàng Thị Mỹ Bình), hiện ở Hà Nội.
LAM BÌNH
Huế muộn
Đại Nội nghiêng chiều
Sẫm cong mi cỏ
Thon biếc lưng Hương
Mây xõa Trường Tiền
Chầm chậm chuông tan
Lênh loang mắt gió
Giọt theo dòng xuôi trong an nhiên
Tay thơm chắp búp Thiền
Vấn vít khói nhang nhón gót sen thương
Khắc khoải mõ điểm nhặt
Hoàng hoa ủ trầm hương
Huế đắm dòng mơ chín giấc miên trường
Vàng son phủ bóng vai chiều muộn
Hồng trần tơ giăng bụi cuốn
Trễ tràng gió rước kiệu vàng
Thập thững mùa sang
Vén mây ngũ sắc tung tẩy vó câu
Ngang Phu Văn Lâu
Xuyên nhành liễu đỏ
Mắt hạ huyền trăng
Vẹt khuyết chân cầu
Nam cầm (*)
Lạc khúc về đâu
Ai người níu lại xưa sau
Mà tìm…
......................................................
(*) Nam cầm (đàn Nam), tương truyền là một nhạc khí dùng trong Nhã nhạc cung đình Huế, tồn tại chưa đầy một trăm năm đã bị thất lạc một cách bí ẩn cho đến tận ngày nay. Theo nhà nghiên cứu Hán học - cố GS. Nguyễn Phúc Bửu Cầm - thì người chế tác ra nhạc khí này là một vị hoàng thân nhà Nguyễn - chúa Nguyễn Phúc Dục (1765 - 1777).
Ái mộng
(Viết cho một người Huế)
Đêm qua, có tiếng chuông ngân giữa thinh không gọi hồn gió trở
Đinh đinh đoong đoong
Phong linh
Buông
Thả
Lênh lênh loang loang
Giọt cầm trăng nhả
Đêm qua, giữa khôn cùng thắc mắc của cảm thức lúc 0h, người đàn bà ngửa mặt uống những giọt chuông của gió. Lọc những ghét ghen, sân si đời chữ. Lọc những cũ mèm, chát chua, ẩn dụ
Đêm qua, giữa khôn cùng hoài nghi của bản thể, người đàn bà xòe tay nâng niu những âm hình của gió. Hứng những trong veo, thanh khiết, huyền hoặc. Hứng những rưng rức, mỏng tang, hư không
Hình như mưa, không, là giọt nước mắt của trời
Rơi xuyên qua lớp váng thị phi ngẫu nhiên phủ xuống góc ao đời an nhiên thiếu phụ.
Lay giấc ngàn năm viên mãn nửa đời sen
Trong im lặng trổ búp mùa khai mở
Trong im lặng hé một đóa niêm hoa vi tiếu
Ru mầm sầu bi hoài thai từ nhân quả vẫn đợi chờ ngẫu duyên
Cái quả bé xinh, nõn nuột, còn đương thì tơ tuốt, ẩm ương, ngang ngạnh
Hong bằng heo may trái còn chưa chín
Ủ bằng nắng mật trái vẫn đong đưa
À, ơi! Đỏng đảnh trái mùa
Lỡ làng… nhỡ rụng sân chùa... một mai
Hình như sương, không, là khúc xạ của bảy sắc cầu vồng
Lấp lóa trên bức tranh trừu tượng viền khung bằng ảo ảnh, sớm mùa đông chim vỗ khúc thiên di
Gió bấc dỗ dành trái buồn vừa trổ cánh
Trễ tràng rồi
Sao chưa vội bay đi
Sao chưa vội bay đi, về phía ngược mùa
Sao còn quyến luyến những xám ngắt phác họa chì, toan tranh mòn, mục rã
Sao còn vương vấn những xước xác thước phim câm, khuôn hình rỗng, ngược sáng
Buốt tia nhìn ngược hướng
Hình như bụi, không, là bóng của lụa là
Như bình minh rất giống với hoàng hôn, thứ ánh sáng có hai màu vàng, đỏ
Một rạng rỡ bước sang ngày mới
Một u uẩn vào cõi đêm thâu
Sơn mài ơi, sang cả và kiêu sa, lộng lẫy, có mấy người tri kỷ để đau cùng nỗi đau của trình tự muôn đời sơn vàng, phết son rồi mài giũa cho mỏi mòn, tàn tạ
Vàng son
“Vàng son thạch thủy khí” (*)
Vàng son rồi sẽ tới vàng phai
Úa một mảng tường, phong kín góc chờ bảo tàng chiều cố quận
Ừ! Thì thôi! Hồng trần dâu bể, “sáng như tơ mà chiều đã như sương”(**), ta vẫn biết, và người cũng biết
Nên vọng tưởng chi mà “khúc cầm nam” cứ hoài mơ dạo nên âm thiên trường địa cửu, tiếc nuối gì mà “hoàng hôn có khói trắng bay” lại thẹn thùng với tuế nguyệt phong vân?
Ừ! Thì thôi! Có gì là bất biến giữa vô thường
Tri ngộ mà vô duyên thì trí huệ chẳng thể nào nắm bắt được chân ái, dù gót son trần tục. Cứ lãng đãng như khói trong cõi không của vô tướng, gần thế... mà lễnh loãng, diệu vợi
Vô ảnh mà hữu tình thì nhã tâm cũng có thể chợt chạm vào xúc cảm, dẫu tóc xõa hư vô. Cứ bồng bềnh như mây giữa ấm lạnh của hai đầu cách trở, xa thế... mà quá đỗi nồng nàn
Nhớ thương, tặng nhau cũng chỉ một chữ “tùy” này thôi!
Đêm qua, có tiếng chuông vang giữa thinh không gọi hồn gió trở
Tỉnh giấc Nam Kha mới hay trăng chìm đáy nước. Huyễn mộng, thế thôi, gặp gỡ rồi cách xa
Thì xin em! Trái mùa cứ chín, no tròn viên mãn giấc tương tư, mặc kệ ngoài khơi xa cánh gió còn chơi vơi bể cả
Mây cuồn cuộn mây
Sóng trùng trùng sóng
Hời ru, ngoan nhé tình nương!
Và tôi
Tôi sẽ lại vì em mà vỗ giấc đợi phút sang ngày
Và mai kia nếu thực còn hạnh ngộ
Lặng lẽ tìm nhau
“Một đóa không”…
.....................................................
(*) Bài lấy cảm hứng và sử dụng một số tên truyện ngắn trong tập “Vàng son thạch thủy khí” của nhà văn Võ Thị Xuân Hà
(**) “Sáng như tơ mà chiều đã như sương” (Tương tiến tửu - Lý Bạch)
(SH308/10-14)
HOÀNG NGỌC QUÝ
NGUYỄN MAN KIM
NGÔ ĐÌNH HẢI
Đinh Thu - Nguyễn Văn Thanh - P.n.thường Đoan - Trần Nhuận Minh - Trọng Hướng - Lâm Anh - Đoàn Mạnh Phương - Đỗ Hàn - Trần Phương Kỳ - Nguyễn Văn Quang - Nguyễn Loan - Triệu Nguyên Phong - Kiều Trung Phương - Nguyễn Thiền Nghi - Hồ Đắc Thiếu Anh - Vạn Lộc - Nguyễn Đạt - Trường Thắng - Lê Nguyễn - Trịnh Bửu Hoài
LTS: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 có ý nghĩa lớn là làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, làm lung lay ý chí xâm lược buộc Mỹ phải “xuống thang chiến tranh”, tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến.
Nguyễn Tùng Linh - Lê Thị Mây - Phạm Sông Hồng - Y Phương - Thuận Vi - Nguyễn Khắc Thạch - Đặng Thị Vân Khanh
HỒ HỒNG TRÂM
TRẦN VIỆT DŨNG
NGUYỄN THỤY KHA
Hoàng Anh Tuấn - Ngọc Tuyết - Nguyễn Thánh Ngã - Khaly Chàm - Mai Văn Hoan - Võ Văn Luyến - Vũ Kim Liên - Lê Vy Thủy
LGT: Kiều Maily sinh năm 1985 tại Pablap - làng Chăm tỉnh Ninh Thuận. Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh. Đã có thơ đăng trên đặc san Tagalau, báo Văn nghệ trẻ, báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Phong Chủ nhật, tạp chí Văn hóa Dân tộc… Một số bài thơ Kiều Maily đã được Inrasara chuyển sang tiếng Chăm. Đây là cây bút nữ có những câu thơ được cho là rất dân tộc mà không thiếu hiện đại.
NGUYỄN MINH KHIÊM
Vĩnh Nguyên - Phan Hoàng - Lê Hưng Tiến - Miên Di - Phan Thành Minh - Viên Chính - Kinh Thượng - Trần Thị Phương Lài - Văn Nhân
Nguyễn Tất Hanh, sinh ngày 17/2/1954; Quê quán: Thủy Đường, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng. Với anh “Nghệ thuật là khó khăn, đòi hỏi người sáng tạo phải tốn nhiều công sức. Nó không phải cuộc dạo chơi mà là sự kiếm tìm, có thể hôm nay bội thu ngày mai lại mất mùa nhưng với tôi - sự hướng tới cái đẹp thì không bao giờ ngừng”.
LÊ THÁNH THƯ
ĐÀO DUY ANH
NGUYỄN NGỌC PHÚ
MAI VĂN PHẤN
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN
Nguyễn Văn Thanh - Nhất Lâm - Nguyễn Thường Kham - Phan Văn Chương - Chu Lê - Trần Vạn Giã - Nguyễn Hoàng Thu - Trần Phương Kỳ - Nguyễn Tất Độ - Lưu Xông Pha