Chùm ca dao chiến sĩ Trường Sơn

10:42 17/03/2010
VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

Chiến sĩ trên đường Trường Sơn - Ảnh: quansu.info

Song có lẽ ít ai biết đến những vần ca dao mộc mạc của các chiến sĩ nói lên cảm xúc của mình trên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Có thể nói ở đâu có dấu chân người lính là ở đó có ca dao.

Dưới đây là chùm ca dao sưu tầm được qua sổ tay của các chiến sĩ, qua báo tường của các binh trạm, hoặc đọc được qua dòng chữ khắc vào thân cây, vách núi trên một chặng đường Trường Sơn đi qua vùng đất Thừa Thiên- Huế.

Ấn tượng đầu tiên đối cới các chiến sĩ vượt Trường Sơn là những cái dốc- mỗi cái là một kỷ niệm.

Dốc Mèo:
            Ai lên A Lưới Dốc Mèo
            Mà xem bộ đội vượt đèo lên mây
Dốc Bò:
            Bò lên rồi lại bò lên
            Bò đi bò lại cho quên nhọc nhằn
Dốc Ông Bà:
            Hỏi ông ông đứng nơi nao
            Phải chăng dốc núi dựng cao lưng trời?
            Hỏi bà bà chẳng trả lời
            Vực sâu thăm thẳm biết người ở đâu
Dốc 200:
            Cheo leo đứng giữa Việt Lào
            Hai bên đồn giặc vẫn vào vẫn ra
            Hai trăm dốc đứng dốc tà
            Vẫn ăn được cá rau cà thường xuyên.
Dốc Bô Phiên:
            Bô Phiên dốc đứng đèo cao
            Cheo leo khúc khủyu bên đèo bên sông
            Qua đây mới thấy lạ lùng
            Tưởng như mình đã tới cùng trăng sao
Đỉnh Trường Sơn:
            Cách nhau chỉ một cây sào
            Trường Sơn hai mái Việt Lào chung lưng
            Trường Sơn hai mái Tây- Đông
            Việt Lào gắn bó thủy chung nghĩa tình.

Hết trèo đèo, vượt dốc lại đến băng rừng. Rừng Trường Sơn bao la hùng vĩ trở nên gần gũi, gắn bó ân tình với các chiến sĩ trong từng bước đi, từng giấc ngủ và từng bữa ăn:

            Ban ngày khoác lá ngụy trang
            Từng đàn bướm trắng, bướm vàng bay theo
            Ban đêm gùi đạn vượt đèo
            Trăng vàng sà xuống đập đèo trên lưng
            Dừng chân mắc võng giữa rừng
            Suối reo, chim hót chúc mừng ngủ ngon
            Ơi người trẩy hội nước non
            Trường Sơn là bạn sắt son đồng hành.

Và đây là bữa cơm giữa rừng:
            Hành quân qua trạm dừng chân
            Dân công bộ đội quây quần bên nhau
            Cơm ngô bày giữa rừng sâu
            Có đàn bướm ngỡ hoa ngâu sà vào
            Trường kỳ kháng chiến gian lao
            Đêm đêm bướm vẫn bay vào trong mơ.


Đậm đà hơn hết, ca dao Trường Sơn biểu lộ tâm hồn và khí phách của các chiến sĩ trong mọi hoàn cảnh chiến đấu và công tác đầy gian khổ hy sinh.

Chiến sĩ binh trạm:
            Binh trạm đóng giữa rừng sâu
            Quanh năm chẳng thấy trăng sao mây trời
            Ngày đêm con suối đưa lời
            Con chim đưa tiếng, mua rơi đều đều
            Quê hương gợi nhớ bao điều
            Cây đa giếng nước nắng chiều mênh mang
            Bóng tre mát rượi quanh làng
            Câu hò giã gạo rộn ràng đêm trăng
            Bao giờ quét sạch xâm lăng
            Quê hương chín nhớ mười thương lại về

Cao xạ pháo:
            Mưu mô thằng Mỹ cuồng điên
            Bắn ngày rồi lại bắn đêm giở trò
            Bắn ngày, mày vụn ra tro
            Bắn đêm, mày cũng gãy giò nát xương
            Lòng ta đã cháy căm hờn
            Lưới ta đã khép mày chuồn đi đâu
            Mưu sâu thì họa càng sâu
            Bảo cho giặc Mỹ một câu nhớ đời

Công binh:
            Đứng trên trọng điểm ta thề
            Đường chưa thông suốt chưa về nghỉ ngơi
            Mặc cho bon đạn ngút trời
            Chẳng xa một tấc, chẳng rời một ly

Lái xe:
            Xe đâu xe lạ xe lùng
            Đầu xe thì bẹp, chắn bùn lại không
            Chỗ ngồi như tựa bàn chông
            Thùng xe gỗ mục vô cùng thảm thương
            Đêm nào cũng chạy trên đường
            Kế hoạch vượt mức chẳng nhường cho ai


Vận tải:
            Đèo cao thì mặc đèo cao
            Tinh thần vận tải còn cao hơn đèo
            Hàng ta, ta quý ta yêu
            Hàng ra tiền tuyến, hàng tiêu diệt thù.

Cô gái dân công:
            Em là cô gái Pacô
            Trên vai trĩu nặng đôi bồ dân công
            Gian nguy chẳng chút sờn lòng
            Đạn bom vẫn vượt núi non vẫn trèo
            Hỏi em đã có người yêu?
            Em cười: Cái bụng ưng theo gùi hàng.


V.N (sưu tầm)
(133/03-2000)    


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.

  • TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu                                                (Ca dao)

  • VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.

  • TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.

  • PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).

  • TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.

  • NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.

  • TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.

  • TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…

  • TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.

  • TRIỀU NGUYÊN           Chùm Truyện ngụ ngôn

  • HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

  • TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).