Cánh đồng nhiều hướng gió

16:21 21/04/2015


NGUYỄN MINH KHIÊM

Ảnh: internet

Cánh đồng nhiều hướng gió

Ta trở về cánh đồng có nhiều vết roi mùa hạ
Quất xuống giấc mơ của làng
Mấy trăm năm còn lằn trong câu tục ngữ
Đặt ngang trí nhớ tuổi thơ như những vết sẹo dài
Máu nước mắt mồ hôi hiện hình lỗ chỗ khúc đồng dao
Thời gian muốn xóa đi bằng kỹ nghệ sơn mài
Càng đánh bóng càng hiện thẳm sâu đứt gãy
Mùa xuân được dắt đi bằng chiếc thừng mùa đông
Tiếng cười của đất đến giờ nghe vẫn chưa hết lạnh
Bông lau nở rồi mà cứ ngơ ngác thực hư.


Ta trở về cánh đồng nơi có bước chân lạ mẹ ta ướm vào sinh ra Thánh Gióng
Văng vẳng câu nuôi khát vọng thì nuôi đồng xa, chớ nuôi đồng nhà làng bắt
Chiếc giỏ hạnh phúc nhiều lần bị lừa đổ trộm
Nhưng mỗi lần nhận con bống bụt cho ta vẫn sợ mang theo bao nhiêu tai họa
Ta không muốn về làm hoàng hậu bằng cách dụ dỗ Cám trèo cau
Giọt máu của cha ta liệm mấy trăm năm rồi mắt vẫn
trừng trừng mở.


Ta vẫn chưa dám buông chiếc diều tuổi thơ được dán bằng chuyện thầy bói xem voi
Kẻ cầm cái đuôi, kẻ cầm cái tai, kẻ cầm cái chân đi đóng thuyền vượt bể
Túi áo ta đựng những lâu đài xây bằng hương cỏ mật
Đựng tiếng cóc khát mưa kêu thành cậu ông trời
Thành vật linh ngồi trên mặt trống.


Ta muốn ru chiếc đòn gánh không còn ghì xiết vai làng bật máu
Ru những hạt phù sa có nắm nhau ta không bao giờ bị đem đi cầm cố lúa non
Ru mùa hoa đến sớm trong giấc mơ không vay nặng lãi
Ru ánh mắt làng được ngủ thật ngon trên rãnh cày mà không phải giật mình bởi mống cụt cầu vồng


Liềm hái cứ mòn vì bao nỗi lo toan
Các thế hệ thay nhau làm chong chóng
Mặt làng tít mù xoay
Trên cánh đồng nhiều hướng gió.


(SH314/04-15)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.