Các cô gái Pacô xưa làm đẹp

09:46 26/03/2012

TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.

Tết Aza của người Pacô - Ảnh: internet

Nếu như ở dân tộc Tà ôi, Bru - Vân Kiều chỉ muốn giữ lại vẻ đẹp trên gương mặt và cơ thể một cách tự nhiên như tạo hóa đã ban tặng thì số ít ở dân tộc Cơtu, Pahy, số nhiều ở người Pacô lại muốn thay đổi một chút ít bằng những nghệ thuật độc đáo được chiết xuất từ cây cỏ, từ những dụng cụ đơn sơ mộc mạc và bằng con mắt nghệ thuật của những người thợ tài nghệ cùng với quan niệm về một cái đẹp chuẩn mực của một tộc người, của những người đẹp xa xưa ấy. Vì thế, họ đã sáng tạo ra nghệ thuật làm đẹp một cách hài hòa và thống nhất để tôn lên vẻ đẹp vốn có của cơ thể mình.

Cái đẹp và cách làm đẹp đó đã trở thành những tập tục riêng biệt. Để các bạn trẻ cũng như những ai chưa biết đến về một tập tục đầy bí ẩn đó của người Pacô xưa và còn lưu ảnh cho đến ngày nay. Bài viết nhỏ này xin giới thiệu từng công đoạn của nghệ thuật làm đẹp và cách lưu giữ một vẻ đẹp hoàn mĩ của những người đẹp xa xưa ấy. Câu chuyện này được đúc kết từ các nghệ nhân đã từng trải qua thời khắc làm đẹp mà bây giờ nét đẹp ấy vẫn còn tươi nguyên.

1. Tục để tóc mái Chăng Kân noyh

Đây là một nét làm đẹp đặc trưng nữa dành chung cho tất cả mọi lứa tuổi của phụ nữ người Pacô. Khi cắt tóc họ chỉ chọn lấy những lọn tóc mềm ở trên trán, sau khi đo ngang tầm họ mới cắt nhẹ nhàng theo hình mẫu mái ngang, tóc mái chỉ cắt ngắn vừa, để lộ ra đôi lông mày có đường xăm thanh thoát và khuôn mặt rạng rỡ, còn tóc mái ở hai bên thì vẫn để nguyên được vuốt gọn ra sau nằm gọn trong lọn tóc bối. Để tăng thêm độ bóng đẹp cho mái tóc, phụ nữ người Pacô thường sử dụng dầu từ trái dừa, một loại dầu được Târ roonh (người yêu) mua của người đồng bằng thông qua buôn bán trao đổi.

Theo như lời các cụ kể: Tập tục xăm hình, cưa răng, căng tai, để tóc mái của các cô gái chàng trai người Pacô xưa không chỉ tăng thêm vẻ đẹp của riêng mình, tạo sự hấp dẫn, thu hút người khác giới để ý đến mình nhiều hơn, thích mình nhiều hơn, mà còn muốn đánh dấu sự khác biệt của dân tộc mình với dân tộc khác. Cụ Kả Nghĩa, thôn A Năm, xã Hồng Vân nói: “Nếu không xăm hình, không cưa răng, căng tai, cắt tóc mái thì các chàng trai chê cười, nói không phải là con gái Pacô mà là con gái người dân tộc khác”.

2. Tạo son môi

Ngày xưa, con gái người Pacô thường ra suối kiếm đá màu đỏ hoặc hồng (đá huyết) đem mài cho nhuyễn thành một thứ nước sền sệt để làm son môi. Một số người khác thì dùng lá cây krier giã nhuyễn, trộn với các hợp chất khác để bôi lên môi cho bóng và đẹp. Trước các dịp lễ hội, con gái thường cất công đến suối A Nôr hay đi xa hơn tận nguồn Ra Ho để kiếm đá màu. Con gái dùng son môi thường quyến rũ và được các chàng trai trong bản làng để mắt tới. Không chỉ dùng đá làm son môi, người Pacô còn biết sử dụng những loại lá cây giã nhuyễn để có màu xanh hay lấy chất màu đen từ nhựa trong tẩu thuốc để làm cho lông mày đen bóng, đậm nét, khó phai.

3. Mã não là trang sức quý

Với người phụ nữ Pacô, những hạt mã não là báu vật. Ngày trước, để có được mỗi hạt mã não, họ phải đổi bằng những con bò, con trâu, ngà voi, nanh và móng vuốt của con hổ. Trong cộng đồng Pacô gia sản của họ ngoài chum, chóe rượu cần, nồi đồng, chiêng, ché... thì những hạt mã não, vừa là trang sức, vừa là một biểu tượng về quyền lực và sự giàu có, sang trọng của họ. Ai có nhiều mã não, chắc chắn người đó rất giàu có và có địa vị cao trong cộng đồng. Mỗi một phụ nữ Pacô khi lấy chồng, của hồi môn mang theo luôn là những hạt mã não. Nhà nào giàu có thì cho con gái một đôi chuỗi; giàu vừa thì một vòng đeo tay; ít lắm thì cũng phải có một đôi hạt.

Bà Kăn Đân ở thôn 6, xã Hồng Thủy, huyện A Lưới kể: “Không chỉ là của hồi môn, mà ngày xưa trai gái người Pacô yêu nhau, quà tặng hay kỷ vật cũng thường là những hạt mã não. Bởi vậy, dù bây giờ giá trị vật chất của nó không còn như xưa, nhưng người phụ nữ Pacô vẫn nâng niu, gìn giữ những hạt mã não như một báu vật vì mỗi hạt có một số phận gắn liền với những câu chuyện kể và kỷ niệm buồn vui từ dĩ vãng”.
 

Cụ Kả Vế - Ảnh: internet

Cụ Kả Vế ở thôn Ta Ay, xã Hồng Trung, một trong những gia đình hiếm hoi còn giữ lại được 3 chuỗi mã não mà cụ luôn mang theo bên mình. Cụ Kả Vế cho biết đó là của hồi môn của gia đình nhà gái cho khi cụ theo về nhà chồng, chí ít nó cũng đã tồn tại hàng trăm năm nay. Cụ bảo: “Xưa không phải ai cũng có mã não mà đeo, chỉ có những nhà giàu có, nhiều trâu bò ruộng nương, có vị thế trong cộng đồng mới mua được mã não”.

Để có những hạt mã não gìn giữ cho đến ngày hôm nay, gia đình cụ Kả Vế đã phải đổi bằng 3 con trâu làm của hồi môn cho con gái ngày cưới. Với những gia đình giàu to, của hồi môn là những chuỗi mã não theo con gái trong ngày cưới; giàu vừa thì phải có vòng đeo tay; còn khó khăn lắm cũng kiếm được đôi ba hạt làm của hồi môn. Những hạt mã não thường gắn liền với phong tục thách cưới của người Pacô xưa.

Với những mẹ, những chị thì mã não là những vật vô giá không rời tay, gắn bó với họ suốt cả cuộc đời. Cụ Cả Hiệt ở thôn Vân Trình, xã A Ngo một trong những người hiếm hoi còn lại trong thôn giữ được 2 chuỗi mã não cho hay, trong thôn Vân Trình giờ đây, không còn mấy phụ nữ còn đeo hạt mã não như cụ. Người giữ nhiều nhất cũng có đôi ba chuỗi mà thôi. Xưa mã não quý hiếm là thế nhưng nay chỉ cần ra chợ, bỏ vài chục nghìn là có ngay những chuỗi mã não đẹp vì thế từ lâu, mã não đã mất đi giá trị quyền uy và tâm linh của nó.

Hơn thế nữa, tục thách cưới của người Pacô hiện nay không còn rườm rà, nặng nề như trước nữa nên mã não cũng không còn được dùng đến. Tuy nhiên, cùng với những chum, ché, chiêng… tồn tại đây đó trong các bản làng người Pacô, tục đeo chuỗi mã não đã tạo nên một nét văn hóa độc đáo, thể hiện quyền uy của những gia đình có vị thế trong xã hội. Nó còn mang bóng dáng của chế độ mẫu hệ tồn tại rơi vãi trong cộng đồng của người Pacô.

Giờ đây tìm những cụ bà còn giữ tục đeo mã não trên người đã khó, gặp được những phụ nữ trẻ đeo mã não càng khó hơn. Lớp trẻ người Pacô không còn mặn mòi gì với hạt mã não nữa khi mà nó không còn mấy dính dáng đến vị thế xã hội của một gia đình hay chẳng còn hiện diện trong ngày cưới của những đôi nam nữ.

Ông Hồ Văn Ngoan - Trưởng Phòng VHTT huyện A Lưới cho hay: “Mã não không chỉ là vật trang sức, qua nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi đã phát hiện những hạt mã não còn có mặt trong các môtíp trang trí của tượng nhà mồ (dưới cổ bức tượng) và trên một số vật dụng sinh hoạt khác như vải, a chói (vật dụng đựng đồ dùng khi lên nương rẫy). Điều này chứng tỏ ngoài ý nghĩa vật chất, làm trang sức, những chuỗi mã não còn gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của người Pacô”.

Hiện nay, vẫn chưa thống kê được còn bao nhiêu cụ bà còn giữ được nét văn hóa truyền thống độc đáo này nhưng chắc chắn rằng, người còn đeo mã não thì rất ít và lớp trẻ là thế hệ con cháu thì không còn đeo mã não nữa. “Điều mất mát là theo luật tục của người Pacô, khi chết một trong những vật dụng buộc phải chôn theo chủ nhân của nó là hạt mã não nên càng ngày loại trang sức này càng ít đi trong cộng đồng dân tộc người Pacô.”

Hạt mã não đẹp và quan trọng là thế, nhưng bây giờ, tìm đỏ mắt cũng hiếm thấy một phụ nữ Pacô trẻ tuổi nào đeo trang sức bằng mã não. Mà thay vào đó là trang sức bằng bạc, đồng và vàng. Vậy là thêm một nét văn hóa độc đáo và đẹp đẽ của người Pacô sắp sửa bị mất đi. Đã vậy theo phong tục, mỗi một phụ nữ Pacô khi chết đi, một trong những vật dụng buộc phải chôn theo cũng là hạt mã não, nên loại trang sức này ngày một ít đi. Hiện trung bình mỗi phụ nữ lớn tuổi người Pacô còn giữ được nhiều nhất là khoảng 10 hạt mã não. Lưu ảnh mã não ở vùng người Pacô, Tà ôi, Cơtu trên dãy Trường Sơn chính là ảnh hưởng của nền văn hóa Sa Huỳnh một thời nổi tiếng ở vùng Trung Bộ.

Các chàng trai cô gái trẻ người Pacô ngày nay không còn tiếp nối tục làm đẹp độc đáo bằng nghệ thuật xăm hình, cưa răng, căng tai, để tóc mái, son môi và đeo mã não của những người đẹp Pacô thuở xa xưa ấy nữa. Nhưng không có nghĩa là họ lãng quên một nét văn hóa độc đáo mà cha ông để lại. Bởi một lẽ đương nhiên rằng: Làm đẹp phải phù hợp với từng thời đại, đặc biệt là nghệ thuật làm đẹp trên gương mặt của các cô gái chàng trai trẻ ngày nay luôn cuốn theo luồng gió hiện đại. Nếu luồng gió ấy có thể quay vòng và trở lại điểm xuất phát từ những ngày đầu tiên của nghệ thuật làm đẹp cổ xưa ấy thì quý biết mấy.

4. Tục xăm hình trên gương mặt và cơ thể

Để có một vẻ đẹp riêng biệt của dân tộc mình, các chàng trai, cô gái Pacô xa xưa có một cách trang điểm độc đáo bằng nghệ thuật xăm hình trên gương mặt và cơ thể. Để có được màu xanh lục tươi đậm của miền rừng xanh, họ thường chọn lấy từ những ngọn cỏ có tên A luông xanh tươi mơn mởn, sau đó được giã nhuyễn và lọc lấy nước cốt đậm đà trộn đều với than khói của nhựa cây A ngo và một loại thuốc dạng củ đặc biệt gọi là Tân đăr.

Dụng cụ xăm hình được lấy từ gai của dây Ki re, bởi đây là một loại gai không độc, không làm sưng tấy, viêm nhiễm. Người xăm hình cũng phải chọn người cẩn thận, có con mắt thẩm mĩ, mát tay và khéo léo. Đầu tiên, người này vẽ lên gương mặt và cơ thể theo sở thích của mỗi người, các loại hoa văn được vẽ làm sao cho phù hợp với từng khuôn mặt và cơ thể của người đó. Sau đó là đường châm của ba mũi kim bằng gai được bó chặt lại thành một và đưa tay thoăn thoắt chạy đều theo đường vẽ, đường xăm đi ngang nào thì nước cốt của cỏ A luông được thấm đều ngang đó.

Để đảm bảo nét thẩm mĩ và sức khoẻ, họ cũng phải qui định mũi kim bằng cách quấn chặt sợi bông ở đầu mũi kim và chừa lại mũi kim vừa tầm. Như vậy, khi châm vào, mũi kim sẽ không châm sâu vào da thịt, sẽ cho một đường nét vừa đậm lại vừa sắc xảo mà không bị thô ráp.

Các loại hoa văn cũng được qui định rõ ràng qua giới tính. Đối với các chàng trai thì được chọn các loại hoa văn thể hiện sự mạnh mẽ dứt khoát như: hình Tung alọ (đốt/khúc tre) được xăm ở trán, hình Kâl lăng tiêr (giàn bếp) được xăm ở hai bên má, hình Tân tiêng (con rồng), hình Ka hẹp (con rết), hình Ku ơơ (con rắn), hình Pa tưng zăng (ché rượu cần) được xăm ở bắp tay, ngực, bắp chân.

Đối với các cô gái thì được chọn các loại hoa văn thể hiện sự mềm mại như: hình Ula A rựưc lá của một loại cỏ đẹp có tên A rựưc được xăm ở bắp chân và cổ tay, hình Xah Ki xay (mặt trăng) dịu dàng được xăm ở dưới cằm, hình Mặt Âr baang (mặt trời) rạng rỡ được xăm ở trán, hình Tah Pân toor (chòm sao) lấp lánh được xăm ở hai bên má và hình Kéo a kọ (móc rựa) được xăm ngay ở hai đường lông mày để tạo đường cong mềm mại quyến rũ.

Tục xăm hình này không chỉ tăng thêm vẻ đẹp để cuốn hút sự chú ý của mọi người mà còn phòng tránh ốm đau khi đi xa, hay khi lên rừng xuống suối tránh được các loại rắn rết và côn trùng độc khác cắn vào.

Mặc dù là một tập tục, một nét đẹp dành cho chàng trai cô gái trẻ nhưng không phải ai cũng xăm được. Cụ Quỳnh Thạch dân tộc Pacô ở thôn Iry, xã Hồng Quảng, một người đã từng xăm nhiều hình đẹp mà hiện giờ vẫn còn hiện rõ trên gương mặt, ông cho biết: “Tục xăm hình ngày xưa chỉ dành cho những người có làn da trắng nõn nà mềm mại như cây Ki đoo (chuối rừng) mới bóc vỏ, thân hình bụ bẫm như cây A băng (măng) rừng đang lớn. Những người đẹp ấy khi được xăm các hoa văn lên gương mặt và cơ thể của họ thì nhìn càng đẹp càng duyên dáng hơn, nhất là khi đi dự lễ hội hay khi đi sim. Dưới ánh nắng vàng rọi vào áo váy, khố, để lộ ra những cánh tay bắp chân trắng ngần với những hoa văn đã được xăm lên thì nhìn ngắm mãi mà không chán. Còn với những người có làn da đen thì dù có muốn cũng không thể xăm được”.

Ở vùng cao A Lưới có 5 tộc người anh em: Pacô, Tà ôi, Cơtu, Pahy, Bru - Vân Kiều cùng sinh sống, nhưng tục xăm hình phổ biến nhất là ở người Pacô và Tà ôi, còn người Cơtu và Pahy cũng có nhưng chỉ số ít mà thôi. Già làng Hồ Thanh Xoa ở thôn Quảng Mai, xã A Ngo nói: “Người Pacô họ rất thích làm đẹp. Nhất là những người đẹp, đã đẹp lại muốn mình đẹp hơn! Nhưng nói thật, khi nhìn thấy họ mặc áo váy, khố đẹp cùng với hình xăm hiện lên trên trên gương mặt, cơ thể của họ thì mình cũng thấy đẹp và thích thật!”

Xưa kia cũng có những người đẹp được xem là lãng mạn và tinh nghịch, bởi ngoài những đường nét hoa văn được xăm ở bên ngoài để phô diễn cho mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mình, thì còn có những người đẹp bạo dạn cho xăm vào những vùng như lưng, vú của mình một cách tự nguyện, điều này chỉ muốn làm sự tò mò của mọi người.

Cụ bà Kả Ngoan ở thôn Đụt, xã Hồng Kim, người được xem là mẫu người đẹp của người Pacô cũng là một người còn giữ nguyên nét đẹp hình xăm xa xưa hé lộ: “Xăm ở vùng như lưng và vú thì chỉ người con trai mà mình đi sim xăm thôi! Khi xăm chỉ có hai người với nhau! Còn người khác thì xấu hổ lắm!”

Tục xăm hình và các đường nét hoa văn của các chàng trai, cô gái Pacô, của những người đẹp xa xưa ấy vẫn còn hiện hữu ở các cụ đẹp lão ngày nay. Khi nhìn ngắm các cụ không chỉ cho ta thấy được một vẻ đẹp độc đáo vừa hoang sơ cổ kính mà còn cho ta một cảm nhận rằng: Những người đẹp của ngày xa xưa ấy đã biết tận dụng những màu sắc tinh túy để tôn lên vẻ đẹp mà tạo hoá đã ban tặng, vẻ đẹp ấy, màu sắc ấy luôn bền bỉ cùng thời gian.

5. Tục căng tai

Để vẻ đẹp độc đáo được hài hòa, người Pacô còn có thêm một tập tục nữa đó là tục căng tai. Từ khi còn bé các cô gái Pacô đã được cha mẹ xâu vào lá tai để tạo thành lỗ bằng gai A song Piêih (gai cây bưởi). Các bé gái nhỏ thì cho đeo những loại trang sức nhỏ gọi là Pâr oyh. Đối với con nhà khá giả, giàu có thì đeo những loại trang sức được làm bằng bạc, còn đối với con nhà nghèo thì đeo những loại như A poọ aưm, khi con gái đã đến tuổi trưởng thành thì họ thường đeo những loại trang sức gọi là Tâng kăm.

Để có một lỗ tai đủ rộng theo ưng ý của mỗi người, người Pacô thường lấy cọng Plăng (cỏ tranh) vừa tầm rồi cho vào cái lỗ đã xâu sẵn, rễ tranh là một loại rễ độc nên khi luồn vào nó sẽ ăn mòn da thịt dần dần và lỗ xâu đó ngày càng khoét rộng ra. Khi vết khô lành, họ không đeo rễ tranh nữa mà thay vào đó là vỏ bắp khô được cuộn tròn chắc được luồn vào lỗ tai gọi là Căng tai, những cuộn vỏ bắp đó cũng được làm nhiều kích cỡ, từ nhỏ đến to, cuộn này lỏng thì tiếp tục thay cuộn khác. Cứ như vậy, cho đến khi đã đạt được đôi lỗ tai ưng ý họ mới đeo một loại trang sức đặc trưng của người Pacô có tên Tâng hil. Đây là một loại trang sức quí giá dành cho phụ nữ từ tuổi trung niên trở lên, loại trang sức này được làm bằng bạc, dát mỏng bề ngoài, bên trong trống rỗng. Mỗi khi thấy các mẹ, các cụ đeo vào tai, dái tai căng xuống, cùng với đôi trang sức Tâng hil lủng lẳng sáng óng ánh dưới ánh mặt trời bên đôi tai của các cụ người Pacô mỗi khi đi làm Tâm mooi (khách) hay trong các dịp lễ hội lớn nhỏ của dân tộc thì trông rất duyên dáng và cổ kính. Theo lời cụ bà Kả Hom ở thôn A Năm, xã Hồng Vân thì:“Khổ nhất là khi giai đoạn đeo rễ tranh, nó ăn vào da thịt vừa đau lại vừa ngứa ngáy khó chịu lắm. Nhưng không thể gãi được vì sợ nó bị sưng tấy, viêm nhiễm. Còn khi giai đoạn căng tai, đeo những vỏ bắp khô nó rất vướng víu bất tiện, nhất là khi đi ngủ. Khổ là thế nhưng vì muốn đẹp thì phải cố gắng chịu đựng thôi!”.
 

Ngày nay, bằng nhiều cách thì nghệ thuật làm đẹp đầy duyên dáng quyến rũ cổ xưa ấy được sống lại trên sân khấu nghệ thuật, trên những trang sách, báo, phim, ảnh của những người con biết yêu quý trân trọng những cái hay cái đẹp của người Pacô. Việc tạo dựng lại những cách làm đẹp này nhằm để quảng bá giới thiệu cho các dân tộc khác hiểu và biết về cách làm đẹp riêng biệt, của một dân tộc riêng biệt. Đồng thời để nhắc lại cho thế hệ trẻ Pacô hiểu và trân trọng một vẻ đẹp độc đáo mà đời trước đã dày công sáng tạo, đã đánh dấu một nét văn hóa riêng có của người Pacô một sự khác biệt với dân tộc anh em khác sinh sống ở dãy Trường Sơn hùng vĩ.

T.N.K.P
(SH277/3-12)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui