MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
Tác phẩm đã xuất bản của Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh: vnexpress
Tại sao Nguyễn Huy Thiệp (xin viết tắt NHT) trở thành cái tên được nhắc đến trước tiên nhất, đảm bảo khả tín lựa chọn nhất, với khả năng gây tranh luận, bàn cãi chưa hề ngừng nghỉ ở các lá phiếu chấp thuận hoặc phản đối, dù tọa độ thời gian đã có hơn ba thập niên điềm tĩnh và cân nhắc tiếp nhận kể từ khi hiện tượng này xuất hiện? Trong tâm thế đối mặt câu hỏi thử thách này, NHT được hình dung là một tác gia văn học sử lí tưởng. Nhưng để bắt đầu giải mã một tác giả văn học sử, công việc cần thiết và quan trọng đầu tiên là phải nắm chắc diễn trình văn chương, một tư liệu cho phép chúng ta nhìn lại chi tiết hơn những thời điểm, tiếng nói, văn phong, thể loại của tác giả. Với những tác giả có vị trí nổi bật như NHT thì cách ông xuất hiện, tạo lập và gây hiệu ứng trên văn đàn không đơn giản là nỗ lực của cá nhân ông mà còn tương thông với bối cảnh đương thời. Bài viết sẽ đưa các cứ liệu và phân tích để chứng minh điều đó.
Niên biểu văn chương NHT
Niên biểu này được tôi dựng trên bốn trục chính: 1. Thời điểm viết theo tác giả xác nhận ở mỗi tác phẩm, có thể chưa đăng in nhưng buộc phải tái hiện trọn vẹn; 2. Các dấu mốc đăng in, xuất bản quan trọng ở trong và ngoài nước; 3. Phê bình, nghiên cứu và làn sóng tiếp nhận của công chúng qua vài xu hướng chính; 4. Một số sự kiện văn chương nghệ thuật và xã hội nổi bật có liên quan, tác động đến trường văn chương NHT. Các lựa chọn đều được dựa trên mức độ quan trọng, khả năng gây ảnh hưởng, dư âm của nó và sẽ được giải thích thêm khi cần thiết. Các chữ viết tắt được dùng: Truyện ngắn (Tr.ng); Kịch (K.); Tiểu thuyết (T.T); Tiểu luận, giới thiệu, phê bình (T.L).
1971: - Tr.ng: Trái tim hổ; Con thú lớn nhất; Nàng Bua. 1979: - Hội nghị đảng viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, xuất hiện phát biểu của Nguyên Ngọc, về sau được gọi là “Đề dẫn”, H: (11 - 13/6/1979); - Hoàng Ngọc Hiến, Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, s.23). 1981: - Tr.ng: Tiệc xòe vui nhất. 1982: - Tr.ng: Sói trả thù; Đất quên; Tâm hồn mẹ. 1983: - Tr.ng: Huyền thoại phố phường; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ III. 1984: - Tr.ng: Nạn dịch; Sạ; Chiếc tù và bị bỏ quên; Cún. 1985: - Tr.ng: Chảy đi sông ơi; Chút thoáng Xuân Hương. 1986: - Tr.ng: Tướng về hưu; Muối của rừng; Nàng Sinh; Cô Mỵ (Văn nghệ, s.18); Vết trượt (Văn nghệ, s.39). 1987: - Tr.ng: Không có vua; Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát: Ngẫu vật thiêng liêng, Sạ, Chiếc tù và bị bỏ quên, Tiệc xòe vui nhất (Văn nghệ, s.3 + 4); Huyền thoại phố phường (Văn nghệ, s.11); Tướng về hưu (Văn nghệ, s.24 + 25 + 26); - Loạt bài đầu tiên thảo luận “Tướng về hưu”, mở đầu cho chuỗi phản ứng liên tiếp của cộng đồng đọc về hiện tượng NHT: Chu Huy, Đôi điều về truyện ngắn “Tướng về hưu”; Nguyễn Hòa, Cảm nhận về một truyện ngắn; Đặng Anh Đào, Khi ông “Tướng về hưu” xuất hiện; Phùng Văn Tửu, Một câu chuyện thôi thúc chúng ta cùng suy nghĩ (Văn nghệ, s.36, s.37); - Nguyên Ngọc có quyết định về làm Tổng Biên tập báo Văn nghệ, tháng 6/1987; - Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gặp mặt và làm việc với gần 100 văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, ngày 6 - 7 tháng 10; - Bộ Chính trị ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn học nghệ thuật và văn hóa (Nghị quyết 05) ngày 28/11; -Nguyễn Minh Châu, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (Văn nghệ, s.49 + 50). 1988: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ nhất); Những người thợ xẻ; Những bài học nông thôn; Giọt máu; Kiếm sắc (Văn nghệ, phụ trương đặc biệt kỉ niệm 40 năm báo 1948 - 1988); Vàng lửa (Văn nghệ, s.18); Phẩm tiết (Văn nghệ, s.29 + 30); - NHT, Tướng về hưu, Nxb. Trẻ - Tuần báo Văn nghệ. Đây là tập truyện đầu tiên của NHT ấn hành ở Việt Nam; - Hoàng Ngọc Hiến, Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió (viết tháng 10/1987, được dùng làm “Lời giới thiệu” cho tập truyện trên); - Nguyên Ngọc thôi chức Tổng Biên tập báo Văn nghệ vào tháng 12/1988. 1989: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ hai); - T.L: Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn; Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn; - NHT, Những ngọn gió Hua Tát, Nxb. Văn hóa; - Greg Lockhart, Tại sao tôi dịch truyện ngắn NHT ra tiếng Anh (Tạp chí Văn học, s.4); - Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Hải Hà, Xung quanh “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” (Tạp chí Văn nghệ quân đội, s.4); - Nhiều tác giả, NHT tác phẩm và dư luận, Huế: Tạp chí Sông Hương và Nxb. Trẻ; - Phim Tướng về hưu, đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần IX. Hiệu ứng Tướng về hưu, như vậy, đã lan sang một lĩnh vực khác là điện ảnh. Cần biết rằng, trong lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam, chưa một bộ phim nào chuyển thể một tác phẩm văn học ngay tức thì như trường hợp Tướng về hưu; - Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV. 1990: - Tr.ng: Mưa; Đời thế mà vui; Nguyễn Thị Lộ; Trương Chi; Tội ác và trừng phạt; - K: Còn lại tình yêu và T.L: Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn (Sông Hương, s.3. Từ đây, tạp chí Sông Hương trở thành không gian quan trọng cho sự xuất hiện đa thể loại của NHT khi mà cao trào đổi mới trên Văn nghệ tại Hà Nội đã lắng xuống); - NHT, Un général à la retraite [Tướng về hưu], Éditions de l’Aube, Pháp. Nhà xuất bản l’Aube, từ đây, sẽ còn tiếp tục xuất bản, tái bản tác phẩm NHT như một công việc thường niên; - NHT, II generale in pensione [Tướng về hưu], Eurostudio, Ý. 1991: - Tr.ng: Sang sông; Thiên văn; Chuyện tình kể trong đêm mưa; - K: Nhà tiên tri; T.L: Nhà văn và bốn trùm “Mafia” (tạp chí Sông Hương, s.3). 1992: - Tr.ng: Thương nhớ đồng quê, Mưa Nhã Nam; - K: Cái chết được che đậy; - T.L: Con đường của nhà thơ; Con đường văn học; - NHT, The general retires and other stories [Tướng về hưu và những truyện khác], Oxford University Press, Hoa Kỳ; - Nguyễn Đăng Mạnh, Truyện ngắn NHT, vài cảm nghĩ (Cửa Việt, s.16, 8/1992. Một sự lên tiếng tiếp theo đến từ miền Trung, đánh dấu thời kì nổi bật của Tạp chí Cửa Việt). 1993: - K: Xuân hồng; - NHT, Con gái thủy thần, Nxb. HVN; NHT, Le Coeur du tigre [Trái tim hổ], Pháp; - T.N.Filimonova, Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Moskva, Nga. 1994: - K: Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; - NHT, Xuân Hồng, California: Tân Thư xuất bản, Hoa Kỳ. 1995: - NHT, Như những ngọn gió, Nxb. Văn học; - NHT, Tijgerhart [Trái tim hổ], Hà Lan; - Phim Thương nhớ đồng quê, dựa trên truyện ngắn cùng tên, đạo diễn Đặng Nhật Minh, giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại LHP Việt Nam lần thứ XI; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V. 1996: - Tr.ng: Thương cho cả đời bạc; Chăn trâu cắt cỏ; - NHT, Les Démons Vivent Parmi Nous [Quỷ ở với người], Pháp. 1997: - Tr.ng: Hạc vừa bay vừa thảng thốt; Không khóc ở California; - NHT, La vengeance du loup [Sói trả thù], Pháp. 1998: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ ba); - K: Suối nhỏ êm dịu. 1999: - Tr.ng: Bài học tiếng Việt; - NHT, Conte d’amour un soir de pluie [Truyện trình kể trong đêm mưa], Pháp. 2000: - Tr.ng: Sống dễ lắm, Đưa sáo sang sông; - T.L: Lưới thơ; Cười lên đi; Lòng mẹ; Giá phải chăng; - NHT, Thương cho cả đời bạc, Nxb. VHTT; - Đỗ Đức Hiểu, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Sông Hương, s.136); - Phim Những người thợ xẻ, đạo diễn Vương Đức, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần thứ XII. 2001: - Tr.ng: Thổ cẩm; Những người muôn năm cũ; Chuyện ông Móng; Lòng mẹ; - K: Suối nhỏ êm dịu - T.L: Giăng lưới bắt chim; Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi; Lê Kim Giao: tên nghiện văn chương; Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy; Sao cứ đùa anh là Thạch Nhọn?; - NHT, Suối nhỏ êm dịu, Văn nghệ xuất bản, Hoa Kỳ; - NHT, Skogens salt [Muối của rừng], Svenska, Thụy Điển; - Nhiều tác giả, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn, Nxb. VHTT. 2002: - Tr.ng: Chú Hoạt tôi; - T.T: Tuổi 20 yêu dấu; - NHT, L’Or et le feu [Vàng và lửa], Pháp. 2003: - T.L: Hiện tượng Vi Thùy Linh; Xin đừng làm chữ của tôi đau; Nguyễn Bảo Sinh, nhà thơ dân gian; Giới thiệu Đồng Đức Bốn; Thời của tiểu thuyết (Ngày Nay, s.19 + 20 + 21 + 22. Ngày Nay, cơ quan ngôn luận của UNESCO ở Việt Nam, một không gian trung lập, thậm chí không dính dáng đến văn nghệ, đã được NHT chọn để phát biểu quan điểm văn chương. “Tiểu thuyết mua vui” trong bài viết này đã là câu cửa miệng nhiều nơi và là căn cứ để người khác phản biện ông); - NHT, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb. Trẻ; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crossing the River: short fiction [Sang sông: tuyển truyện ngắn], Curbstone Press, Hoa Kỳ. 2004: - Tr.ng: Cánh buồm nâu thuở ấy; Những tiếng lòng líu la líu lo; Chuyện bà Móng; Quan Âm chỉ lộ; - K: Mổ nhà văn; - T.L: Hoàng Ngọc Hiến: Viên ngọc hiếm; Về chiêu pháp “túy quyền” trong văn học của một nhà văn; Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (Ngày Nay, s.4 + 5 + 6. Đây là một tiểu luận gây phản ứng dữ dội bậc nhất và một lần nữa, những ý kiến phủ nhận đã nhắm vào tác giả và cả người đứng đầu tờ báo); 2005: - T.T: Võ lâm ngoại sử; - T.L: Thương bạn Đồng Đức Bốn; Nhớ bạn Đồng Đức Bốn; - NHT, Giăng lưới bắt chim, Nxb. HNV và Đông A; - NHT, Cánh buồm nâu thuở ấy, Nxb. HVN và Đông A; - NHT, À nos vingt ans [Tuổi 20 yêu dấu], Pháp; - Hội thảo “Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” tại Đại học Sư phạm Hà Nội: Trần Văn Toàn, Nhà văn hiện đại Việt Nam - những giới hạn và sứ mệnh (Suy nghĩ từ những sáng tác của NHT); Châu Minh Hùng, Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại qua cấu trúc truyện của NHT; Lê Huy Bắc, “Bậc hiền triết - con chó xồm” hay kỹ thuật nhại của NHT. 2006: - T.L: Tính dục trong văn học hôm nay; Nhân ngày thơ, bàn về thơ; “Khải huyền muộn” - Cảm hứng và những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Lại nói về những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Giời không có mắt; Không nhạt; - NHT, Tiểu long nữ, Nxb. CAND; - Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội về thể loại phê bình dành cho Giăng lưới bắt chim. 2007: - Tr.ng: Cà phê Hàng Hành; - T.L: Trở lại tự nhiên; - NHT, Gạ tình lấy điểm, Nxb. HNV;- NHT, Truyện ngắn NHT (Với minh họa của các họa sĩ), Nxb. Văn hóa Sài Gòn; - NHT được nhận Huân chương Văn học nghệ thuật của chính phủ Pháp. 2008: - Tr.ng: Như sương khói bay; - K: Nhà Ô-sin; Đến bờ bên kia; - T.L: Diễn từ trong dịp nhận giải thưởng Nonino; - NHT, Soffi di vento sul Vietnam, [Những ngọn gió từ Việt Nam], ObarraO, Ý; - NHT, Mon oncle Hoat [Chú Hoạt tôi], Pháp; - NHT được nhận giải thưởng Nonino Risit d’Âur của Ý; - Đến bờ bên kia được trình diễn trong Liên hoan sân khấu thể nghiệm toàn quốc lần I. 2009: - T.L: Đất và người Nam bộ Việt Nam; - NHT, Der pensionierte General [Tướng về hưu], Mitteldeutscher Verlag, Đức. 2010: -NHT, Nhà Ô-sin, tập kịch, Nxb. Thanh Niên; - NHT, Mademoiselle Sinh [Nàng Sinh], Pháp. 2011: - Phim Tâm hồn mẹ, phỏng theo truyện cùng tên của NHT, đạo diễn Phạm Nhuệ Giang. 2012: - NHT, Vong bướm, Nxb. Thời đại và Nhã Nam; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crimes, amour et châtiment [Tội ác, tình yêu và trừng phạt], Pháp; - Nguyễn Văn Đông, Lời văn nghệ thuật NHT, Luận án tiến sĩ; - Nhà hát Tuổi Trẻ công diễn vở kịch Nhà Ô-sin, đạo diễn Lê Khanh. 2013: - Nguyễn Văn Thuấn, Liên văn bản trong sáng tác NHT, Luận án tiến sĩ. 2014: - T.L: Nhà văn và bốn “ông trùm” (Nghệ thuật mới, bộ mới, s.9); - La Khắc Hòa, NHT và bước ngoặt của văn học Việt Nam. 2015: - T.L: Tôi viết truyện “Tướng về hưu” (Tuổi Trẻ cuối tuần, tháng 6/2015); - NHT, Regn i Nhã Nam [Mưa Nhã Nam], Bokfưrlaget Tranan, Thụy Điển.
Một vài nhận xét
Khác với ví von có phần đơn giản rằng “NHT là bông hoa nở muộn trên văn đàn”, chúng ta thấy cuộc viết của NHT nảy sinh khá sớm, từ thập niên 1970, lúc ông ngoài hai mươi tuổi, và âm thầm xuất hiện vào năm 1986 trước khi thực sự bùng nổ vào năm 1987. Một quá trình viết như thế chắc chắn được điều chỉnh bởi sự quan sát, nghiên cứu kĩ lưỡng bạn đọc để “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại mình” sao cho “hợp thời” (Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn). Theo thống kê của tôi, đến thời điểm này (6/2015), NHT có 110 tác phẩm, trong đó có 53 truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 13 vở kịch, còn lại là những tiểu luận, tạp văn, phê bình. Việc ông tuyên bố ngừng viết, “rửa tay gác kiếm”, “cuộc chơi kết thúc”1 phần nào phản ánh sự lắng lại của cao trào đổi mới văn học khi mà những điều kiện duy trì, tiếp sức cho nó không còn dồi dào, thuận lợi như trước.
Tác phẩm NHT, một cách liên tục, được “xoay vòng” xuất bản bởi hầu hết các nhà xuất bản lớn của Việt Nam. Đáng chú ý hơn, không lâu sau khi ông vừa nổi tiếng trong nước, biên giới tác phẩm NHT nhanh chóng được mở rộng ra nhiều cộng đồng ngôn ngữ khác nhau: từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý đến tiếng Hà Lan, Thụy Điển, Đức, Nhật… Như vậy, không đợi đến ân sủng ngoại giao, NHT trở thành nhà văn Việt Nam đương đại có tính quốc tế đáng kể nhất và nhờ vị thế này, văn chương NHT được sử dụng như một tư liệu tìm hiểu Việt Nam của giới nghiên cứu Việt học trên thế giới. Trong phạm vi tiếp cận các nghiên cứu viết bằng tiếng Anh, tôi coi những tiểu luận dưới đây là nổi bật và có giá trị gợi mở hơn cả: Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietamese Literature [NHT và diện mạo văn học Việt Nam] của Greg Lokhart, vốn là một dẫn nhập cho Tướng về hưu và những truyện khác do ông dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 1992. Cũng vào năm 1992, tiến sĩ Peter Zinoman, với những am hiểu văn chương, xã hội Việt Nam sâu sắc của ông, đã cho đăng hai tiểu luận có tính chất mở rộng và đụng chạm nhiều vấn đề quan trọng: Nguyen Huy Thiep’s “Vang lua” and the Nature of Intellectual Dissent in Contemporary Vietnam [“Vàng lửa” của NHT và bản chất sự bất đồng tri thức trong xã hội Việt Nam đương đại] và Declassifying Nguyễn Huy Thiệp [Giải mật NHT]. Học giả Keith W. Taylor, từ 1991, sau nhiều lần hiệu chỉnh và bổ túc thì năm 1998 cũng đã công bố Locating and translating boundaries in Nguyen Huy Thiep’s short stories” [Định vị và chuyển dịch ranh giới trong truyện ngắn NHT], một tiểu luận thú vị và hấp dẫn, trên Vietnam Review. Cần sòng phẳng để nói rằng, không nhiều nhà văn đương đại của chúng ta được là một từ khóa nghiên cứu thường xuyên tái lặp như vậy.
Những tranh luận, phê bình về văn chương NHT đã phá vỡ các biên giới địa lí tiếp nhận và các không gian im lặng của tri thức. Trước hết, cần thấy sự dịch chuyển và lan rộng ngày một khác đi của không gian tranh luận Nguyễn Huy Thiệp, từ Văn nghệ tại Hà Nội, quá trình “nam tiến” tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp chạm đến những tiếng nói từ các tỉnh như Cửa Việt, Sông Hương, Đất Quảng, thậm chí Cánh Én, mà thực chất, là nới rộng những quan điểm có thể gây hiệu ứng hơn tại thời điểm đó. Và gần như đồng thời, loạt bài viết của Trần Đạo, Văn Ngọc, Thụy Khuê (Pháp), Nguyễn Vy Khanh (Canada), Trương Hồng Quang (Đức), Đào Trung Đạo (Mỹ), Nguyễn Đình Đăng (Nhật Bản)..., có ý nghĩa điển hình cho sự quan sát tinh tế, thẳng thắn của giới văn chương Việt hải ngoại đối với sự thay đổi có tính chất bước ngoặt của văn học trong nước mà cho đến đầu thập niên 1990 mới được tìm thấy qua loạt tác phẩm NHT xuất ngoại. Khi phê bình báo chí với không ít va chạm quan điểm đôi khi nảy lửa lắng lại, tiếp nhận NHT xuất hiện trong các nghiên cứu chuyên sâu, các luận văn, luận án và tại đây, trong lúc chỉ ra những đặc sắc bút pháp và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, việc ứng dụng lí thuyết phê bình văn học trở nên đa hướng, từ thi pháp học, tự sự học, liên văn bản đến sinh thái học, hậu hiện đại… Đóng vai trò phép thử, tác phẩm NHT đã kích hoạt các phiêu lưu tìm biết, ứng dụng lí thuyết phê bình phương Tây và nhắc nhở về sự mất bóng dần của phê bình Mác-xít từng độc tôn lâu dài trước Đổi mới. Độc giả, giới phê bình Việt Nam và quốc tế, bằng việc đọc NHT, đã cùng gặp gỡ trên rất nhiều điểm vừa tương đồng vừa khác biệt. Chứng kiến một tác giả văn chương luôn hiện diện trong hàng loạt từ khóa nghiên cứu văn học, văn hóa Việt Nam đương đại như vậy, tất yếu, sẽ thôi thúc, nảy sinh nhiều cách diễn giải hơn nữa. Không kết thúc tạo ra sự lớn lao của nhà văn, với Nguyễn Huy Thiệp, nghĩa là như vậy.
M.A.T
(SH321/11-15)
.....................................
1. Năm 2012, sau khi in vở kịch Vong bướm, trên nhiều phương tiện truyền thông, Nguyễn Huy Thiệp đã tuyên bố “ngừng viết”. Đến thời điểm này, Nguyễn Huy Thiệp đã hoàn thiện bản thảo một cuốn tiểu thuyết võ hiệp nhưng chưa có điều kiện công bố. Cá nhân tôi đã được đọc bản thảo này và nhận thấy rất nhiều điểm lí thú, độc đáo trong đó.
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.