MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
Tác phẩm đã xuất bản của Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh: vnexpress
Tại sao Nguyễn Huy Thiệp (xin viết tắt NHT) trở thành cái tên được nhắc đến trước tiên nhất, đảm bảo khả tín lựa chọn nhất, với khả năng gây tranh luận, bàn cãi chưa hề ngừng nghỉ ở các lá phiếu chấp thuận hoặc phản đối, dù tọa độ thời gian đã có hơn ba thập niên điềm tĩnh và cân nhắc tiếp nhận kể từ khi hiện tượng này xuất hiện? Trong tâm thế đối mặt câu hỏi thử thách này, NHT được hình dung là một tác gia văn học sử lí tưởng. Nhưng để bắt đầu giải mã một tác giả văn học sử, công việc cần thiết và quan trọng đầu tiên là phải nắm chắc diễn trình văn chương, một tư liệu cho phép chúng ta nhìn lại chi tiết hơn những thời điểm, tiếng nói, văn phong, thể loại của tác giả. Với những tác giả có vị trí nổi bật như NHT thì cách ông xuất hiện, tạo lập và gây hiệu ứng trên văn đàn không đơn giản là nỗ lực của cá nhân ông mà còn tương thông với bối cảnh đương thời. Bài viết sẽ đưa các cứ liệu và phân tích để chứng minh điều đó.
Niên biểu văn chương NHT
Niên biểu này được tôi dựng trên bốn trục chính: 1. Thời điểm viết theo tác giả xác nhận ở mỗi tác phẩm, có thể chưa đăng in nhưng buộc phải tái hiện trọn vẹn; 2. Các dấu mốc đăng in, xuất bản quan trọng ở trong và ngoài nước; 3. Phê bình, nghiên cứu và làn sóng tiếp nhận của công chúng qua vài xu hướng chính; 4. Một số sự kiện văn chương nghệ thuật và xã hội nổi bật có liên quan, tác động đến trường văn chương NHT. Các lựa chọn đều được dựa trên mức độ quan trọng, khả năng gây ảnh hưởng, dư âm của nó và sẽ được giải thích thêm khi cần thiết. Các chữ viết tắt được dùng: Truyện ngắn (Tr.ng); Kịch (K.); Tiểu thuyết (T.T); Tiểu luận, giới thiệu, phê bình (T.L).
1971: - Tr.ng: Trái tim hổ; Con thú lớn nhất; Nàng Bua. 1979: - Hội nghị đảng viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, xuất hiện phát biểu của Nguyên Ngọc, về sau được gọi là “Đề dẫn”, H: (11 - 13/6/1979); - Hoàng Ngọc Hiến, Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, s.23). 1981: - Tr.ng: Tiệc xòe vui nhất. 1982: - Tr.ng: Sói trả thù; Đất quên; Tâm hồn mẹ. 1983: - Tr.ng: Huyền thoại phố phường; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ III. 1984: - Tr.ng: Nạn dịch; Sạ; Chiếc tù và bị bỏ quên; Cún. 1985: - Tr.ng: Chảy đi sông ơi; Chút thoáng Xuân Hương. 1986: - Tr.ng: Tướng về hưu; Muối của rừng; Nàng Sinh; Cô Mỵ (Văn nghệ, s.18); Vết trượt (Văn nghệ, s.39). 1987: - Tr.ng: Không có vua; Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát: Ngẫu vật thiêng liêng, Sạ, Chiếc tù và bị bỏ quên, Tiệc xòe vui nhất (Văn nghệ, s.3 + 4); Huyền thoại phố phường (Văn nghệ, s.11); Tướng về hưu (Văn nghệ, s.24 + 25 + 26); - Loạt bài đầu tiên thảo luận “Tướng về hưu”, mở đầu cho chuỗi phản ứng liên tiếp của cộng đồng đọc về hiện tượng NHT: Chu Huy, Đôi điều về truyện ngắn “Tướng về hưu”; Nguyễn Hòa, Cảm nhận về một truyện ngắn; Đặng Anh Đào, Khi ông “Tướng về hưu” xuất hiện; Phùng Văn Tửu, Một câu chuyện thôi thúc chúng ta cùng suy nghĩ (Văn nghệ, s.36, s.37); - Nguyên Ngọc có quyết định về làm Tổng Biên tập báo Văn nghệ, tháng 6/1987; - Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh gặp mặt và làm việc với gần 100 văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, ngày 6 - 7 tháng 10; - Bộ Chính trị ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn học nghệ thuật và văn hóa (Nghị quyết 05) ngày 28/11; -Nguyễn Minh Châu, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (Văn nghệ, s.49 + 50). 1988: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ nhất); Những người thợ xẻ; Những bài học nông thôn; Giọt máu; Kiếm sắc (Văn nghệ, phụ trương đặc biệt kỉ niệm 40 năm báo 1948 - 1988); Vàng lửa (Văn nghệ, s.18); Phẩm tiết (Văn nghệ, s.29 + 30); - NHT, Tướng về hưu, Nxb. Trẻ - Tuần báo Văn nghệ. Đây là tập truyện đầu tiên của NHT ấn hành ở Việt Nam; - Hoàng Ngọc Hiến, Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió (viết tháng 10/1987, được dùng làm “Lời giới thiệu” cho tập truyện trên); - Nguyên Ngọc thôi chức Tổng Biên tập báo Văn nghệ vào tháng 12/1988. 1989: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ hai); - T.L: Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn; Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn; - NHT, Những ngọn gió Hua Tát, Nxb. Văn hóa; - Greg Lockhart, Tại sao tôi dịch truyện ngắn NHT ra tiếng Anh (Tạp chí Văn học, s.4); - Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Hải Hà, Xung quanh “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” (Tạp chí Văn nghệ quân đội, s.4); - Nhiều tác giả, NHT tác phẩm và dư luận, Huế: Tạp chí Sông Hương và Nxb. Trẻ; - Phim Tướng về hưu, đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần IX. Hiệu ứng Tướng về hưu, như vậy, đã lan sang một lĩnh vực khác là điện ảnh. Cần biết rằng, trong lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam, chưa một bộ phim nào chuyển thể một tác phẩm văn học ngay tức thì như trường hợp Tướng về hưu; - Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV. 1990: - Tr.ng: Mưa; Đời thế mà vui; Nguyễn Thị Lộ; Trương Chi; Tội ác và trừng phạt; - K: Còn lại tình yêu và T.L: Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn (Sông Hương, s.3. Từ đây, tạp chí Sông Hương trở thành không gian quan trọng cho sự xuất hiện đa thể loại của NHT khi mà cao trào đổi mới trên Văn nghệ tại Hà Nội đã lắng xuống); - NHT, Un général à la retraite [Tướng về hưu], Éditions de l’Aube, Pháp. Nhà xuất bản l’Aube, từ đây, sẽ còn tiếp tục xuất bản, tái bản tác phẩm NHT như một công việc thường niên; - NHT, II generale in pensione [Tướng về hưu], Eurostudio, Ý. 1991: - Tr.ng: Sang sông; Thiên văn; Chuyện tình kể trong đêm mưa; - K: Nhà tiên tri; T.L: Nhà văn và bốn trùm “Mafia” (tạp chí Sông Hương, s.3). 1992: - Tr.ng: Thương nhớ đồng quê, Mưa Nhã Nam; - K: Cái chết được che đậy; - T.L: Con đường của nhà thơ; Con đường văn học; - NHT, The general retires and other stories [Tướng về hưu và những truyện khác], Oxford University Press, Hoa Kỳ; - Nguyễn Đăng Mạnh, Truyện ngắn NHT, vài cảm nghĩ (Cửa Việt, s.16, 8/1992. Một sự lên tiếng tiếp theo đến từ miền Trung, đánh dấu thời kì nổi bật của Tạp chí Cửa Việt). 1993: - K: Xuân hồng; - NHT, Con gái thủy thần, Nxb. HVN; NHT, Le Coeur du tigre [Trái tim hổ], Pháp; - T.N.Filimonova, Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Moskva, Nga. 1994: - K: Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; - NHT, Xuân Hồng, California: Tân Thư xuất bản, Hoa Kỳ. 1995: - NHT, Như những ngọn gió, Nxb. Văn học; - NHT, Tijgerhart [Trái tim hổ], Hà Lan; - Phim Thương nhớ đồng quê, dựa trên truyện ngắn cùng tên, đạo diễn Đặng Nhật Minh, giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại LHP Việt Nam lần thứ XI; - Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V. 1996: - Tr.ng: Thương cho cả đời bạc; Chăn trâu cắt cỏ; - NHT, Les Démons Vivent Parmi Nous [Quỷ ở với người], Pháp. 1997: - Tr.ng: Hạc vừa bay vừa thảng thốt; Không khóc ở California; - NHT, La vengeance du loup [Sói trả thù], Pháp. 1998: - Tr.ng: Con gái thủy thần (truyện thứ ba); - K: Suối nhỏ êm dịu. 1999: - Tr.ng: Bài học tiếng Việt; - NHT, Conte d’amour un soir de pluie [Truyện trình kể trong đêm mưa], Pháp. 2000: - Tr.ng: Sống dễ lắm, Đưa sáo sang sông; - T.L: Lưới thơ; Cười lên đi; Lòng mẹ; Giá phải chăng; - NHT, Thương cho cả đời bạc, Nxb. VHTT; - Đỗ Đức Hiểu, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Sông Hương, s.136); - Phim Những người thợ xẻ, đạo diễn Vương Đức, giải Bông sen bạc tại LHP Việt Nam lần thứ XII. 2001: - Tr.ng: Thổ cẩm; Những người muôn năm cũ; Chuyện ông Móng; Lòng mẹ; - K: Suối nhỏ êm dịu - T.L: Giăng lưới bắt chim; Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi; Lê Kim Giao: tên nghiện văn chương; Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy; Sao cứ đùa anh là Thạch Nhọn?; - NHT, Suối nhỏ êm dịu, Văn nghệ xuất bản, Hoa Kỳ; - NHT, Skogens salt [Muối của rừng], Svenska, Thụy Điển; - Nhiều tác giả, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn, Nxb. VHTT. 2002: - Tr.ng: Chú Hoạt tôi; - T.T: Tuổi 20 yêu dấu; - NHT, L’Or et le feu [Vàng và lửa], Pháp. 2003: - T.L: Hiện tượng Vi Thùy Linh; Xin đừng làm chữ của tôi đau; Nguyễn Bảo Sinh, nhà thơ dân gian; Giới thiệu Đồng Đức Bốn; Thời của tiểu thuyết (Ngày Nay, s.19 + 20 + 21 + 22. Ngày Nay, cơ quan ngôn luận của UNESCO ở Việt Nam, một không gian trung lập, thậm chí không dính dáng đến văn nghệ, đã được NHT chọn để phát biểu quan điểm văn chương. “Tiểu thuyết mua vui” trong bài viết này đã là câu cửa miệng nhiều nơi và là căn cứ để người khác phản biện ông); - NHT, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb. Trẻ; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crossing the River: short fiction [Sang sông: tuyển truyện ngắn], Curbstone Press, Hoa Kỳ. 2004: - Tr.ng: Cánh buồm nâu thuở ấy; Những tiếng lòng líu la líu lo; Chuyện bà Móng; Quan Âm chỉ lộ; - K: Mổ nhà văn; - T.L: Hoàng Ngọc Hiến: Viên ngọc hiếm; Về chiêu pháp “túy quyền” trong văn học của một nhà văn; Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (Ngày Nay, s.4 + 5 + 6. Đây là một tiểu luận gây phản ứng dữ dội bậc nhất và một lần nữa, những ý kiến phủ nhận đã nhắm vào tác giả và cả người đứng đầu tờ báo); 2005: - T.T: Võ lâm ngoại sử; - T.L: Thương bạn Đồng Đức Bốn; Nhớ bạn Đồng Đức Bốn; - NHT, Giăng lưới bắt chim, Nxb. HNV và Đông A; - NHT, Cánh buồm nâu thuở ấy, Nxb. HVN và Đông A; - NHT, À nos vingt ans [Tuổi 20 yêu dấu], Pháp; - Hội thảo “Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” tại Đại học Sư phạm Hà Nội: Trần Văn Toàn, Nhà văn hiện đại Việt Nam - những giới hạn và sứ mệnh (Suy nghĩ từ những sáng tác của NHT); Châu Minh Hùng, Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại qua cấu trúc truyện của NHT; Lê Huy Bắc, “Bậc hiền triết - con chó xồm” hay kỹ thuật nhại của NHT. 2006: - T.L: Tính dục trong văn học hôm nay; Nhân ngày thơ, bàn về thơ; “Khải huyền muộn” - Cảm hứng và những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Lại nói về những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết; Giời không có mắt; Không nhạt; - NHT, Tiểu long nữ, Nxb. CAND; - Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội về thể loại phê bình dành cho Giăng lưới bắt chim. 2007: - Tr.ng: Cà phê Hàng Hành; - T.L: Trở lại tự nhiên; - NHT, Gạ tình lấy điểm, Nxb. HNV;- NHT, Truyện ngắn NHT (Với minh họa của các họa sĩ), Nxb. Văn hóa Sài Gòn; - NHT được nhận Huân chương Văn học nghệ thuật của chính phủ Pháp. 2008: - Tr.ng: Như sương khói bay; - K: Nhà Ô-sin; Đến bờ bên kia; - T.L: Diễn từ trong dịp nhận giải thưởng Nonino; - NHT, Soffi di vento sul Vietnam, [Những ngọn gió từ Việt Nam], ObarraO, Ý; - NHT, Mon oncle Hoat [Chú Hoạt tôi], Pháp; - NHT được nhận giải thưởng Nonino Risit d’Âur của Ý; - Đến bờ bên kia được trình diễn trong Liên hoan sân khấu thể nghiệm toàn quốc lần I. 2009: - T.L: Đất và người Nam bộ Việt Nam; - NHT, Der pensionierte General [Tướng về hưu], Mitteldeutscher Verlag, Đức. 2010: -NHT, Nhà Ô-sin, tập kịch, Nxb. Thanh Niên; - NHT, Mademoiselle Sinh [Nàng Sinh], Pháp. 2011: - Phim Tâm hồn mẹ, phỏng theo truyện cùng tên của NHT, đạo diễn Phạm Nhuệ Giang. 2012: - NHT, Vong bướm, Nxb. Thời đại và Nhã Nam; - NHT, Tuyển tập kịch, Nxb. Trẻ; - NHT, Crimes, amour et châtiment [Tội ác, tình yêu và trừng phạt], Pháp; - Nguyễn Văn Đông, Lời văn nghệ thuật NHT, Luận án tiến sĩ; - Nhà hát Tuổi Trẻ công diễn vở kịch Nhà Ô-sin, đạo diễn Lê Khanh. 2013: - Nguyễn Văn Thuấn, Liên văn bản trong sáng tác NHT, Luận án tiến sĩ. 2014: - T.L: Nhà văn và bốn “ông trùm” (Nghệ thuật mới, bộ mới, s.9); - La Khắc Hòa, NHT và bước ngoặt của văn học Việt Nam. 2015: - T.L: Tôi viết truyện “Tướng về hưu” (Tuổi Trẻ cuối tuần, tháng 6/2015); - NHT, Regn i Nhã Nam [Mưa Nhã Nam], Bokfưrlaget Tranan, Thụy Điển.
Một vài nhận xét
Khác với ví von có phần đơn giản rằng “NHT là bông hoa nở muộn trên văn đàn”, chúng ta thấy cuộc viết của NHT nảy sinh khá sớm, từ thập niên 1970, lúc ông ngoài hai mươi tuổi, và âm thầm xuất hiện vào năm 1986 trước khi thực sự bùng nổ vào năm 1987. Một quá trình viết như thế chắc chắn được điều chỉnh bởi sự quan sát, nghiên cứu kĩ lưỡng bạn đọc để “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại mình” sao cho “hợp thời” (Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn). Theo thống kê của tôi, đến thời điểm này (6/2015), NHT có 110 tác phẩm, trong đó có 53 truyện ngắn, 4 tiểu thuyết, 13 vở kịch, còn lại là những tiểu luận, tạp văn, phê bình. Việc ông tuyên bố ngừng viết, “rửa tay gác kiếm”, “cuộc chơi kết thúc”1 phần nào phản ánh sự lắng lại của cao trào đổi mới văn học khi mà những điều kiện duy trì, tiếp sức cho nó không còn dồi dào, thuận lợi như trước.
Tác phẩm NHT, một cách liên tục, được “xoay vòng” xuất bản bởi hầu hết các nhà xuất bản lớn của Việt Nam. Đáng chú ý hơn, không lâu sau khi ông vừa nổi tiếng trong nước, biên giới tác phẩm NHT nhanh chóng được mở rộng ra nhiều cộng đồng ngôn ngữ khác nhau: từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý đến tiếng Hà Lan, Thụy Điển, Đức, Nhật… Như vậy, không đợi đến ân sủng ngoại giao, NHT trở thành nhà văn Việt Nam đương đại có tính quốc tế đáng kể nhất và nhờ vị thế này, văn chương NHT được sử dụng như một tư liệu tìm hiểu Việt Nam của giới nghiên cứu Việt học trên thế giới. Trong phạm vi tiếp cận các nghiên cứu viết bằng tiếng Anh, tôi coi những tiểu luận dưới đây là nổi bật và có giá trị gợi mở hơn cả: Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietamese Literature [NHT và diện mạo văn học Việt Nam] của Greg Lokhart, vốn là một dẫn nhập cho Tướng về hưu và những truyện khác do ông dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 1992. Cũng vào năm 1992, tiến sĩ Peter Zinoman, với những am hiểu văn chương, xã hội Việt Nam sâu sắc của ông, đã cho đăng hai tiểu luận có tính chất mở rộng và đụng chạm nhiều vấn đề quan trọng: Nguyen Huy Thiep’s “Vang lua” and the Nature of Intellectual Dissent in Contemporary Vietnam [“Vàng lửa” của NHT và bản chất sự bất đồng tri thức trong xã hội Việt Nam đương đại] và Declassifying Nguyễn Huy Thiệp [Giải mật NHT]. Học giả Keith W. Taylor, từ 1991, sau nhiều lần hiệu chỉnh và bổ túc thì năm 1998 cũng đã công bố Locating and translating boundaries in Nguyen Huy Thiep’s short stories” [Định vị và chuyển dịch ranh giới trong truyện ngắn NHT], một tiểu luận thú vị và hấp dẫn, trên Vietnam Review. Cần sòng phẳng để nói rằng, không nhiều nhà văn đương đại của chúng ta được là một từ khóa nghiên cứu thường xuyên tái lặp như vậy.
Những tranh luận, phê bình về văn chương NHT đã phá vỡ các biên giới địa lí tiếp nhận và các không gian im lặng của tri thức. Trước hết, cần thấy sự dịch chuyển và lan rộng ngày một khác đi của không gian tranh luận Nguyễn Huy Thiệp, từ Văn nghệ tại Hà Nội, quá trình “nam tiến” tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp chạm đến những tiếng nói từ các tỉnh như Cửa Việt, Sông Hương, Đất Quảng, thậm chí Cánh Én, mà thực chất, là nới rộng những quan điểm có thể gây hiệu ứng hơn tại thời điểm đó. Và gần như đồng thời, loạt bài viết của Trần Đạo, Văn Ngọc, Thụy Khuê (Pháp), Nguyễn Vy Khanh (Canada), Trương Hồng Quang (Đức), Đào Trung Đạo (Mỹ), Nguyễn Đình Đăng (Nhật Bản)..., có ý nghĩa điển hình cho sự quan sát tinh tế, thẳng thắn của giới văn chương Việt hải ngoại đối với sự thay đổi có tính chất bước ngoặt của văn học trong nước mà cho đến đầu thập niên 1990 mới được tìm thấy qua loạt tác phẩm NHT xuất ngoại. Khi phê bình báo chí với không ít va chạm quan điểm đôi khi nảy lửa lắng lại, tiếp nhận NHT xuất hiện trong các nghiên cứu chuyên sâu, các luận văn, luận án và tại đây, trong lúc chỉ ra những đặc sắc bút pháp và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, việc ứng dụng lí thuyết phê bình văn học trở nên đa hướng, từ thi pháp học, tự sự học, liên văn bản đến sinh thái học, hậu hiện đại… Đóng vai trò phép thử, tác phẩm NHT đã kích hoạt các phiêu lưu tìm biết, ứng dụng lí thuyết phê bình phương Tây và nhắc nhở về sự mất bóng dần của phê bình Mác-xít từng độc tôn lâu dài trước Đổi mới. Độc giả, giới phê bình Việt Nam và quốc tế, bằng việc đọc NHT, đã cùng gặp gỡ trên rất nhiều điểm vừa tương đồng vừa khác biệt. Chứng kiến một tác giả văn chương luôn hiện diện trong hàng loạt từ khóa nghiên cứu văn học, văn hóa Việt Nam đương đại như vậy, tất yếu, sẽ thôi thúc, nảy sinh nhiều cách diễn giải hơn nữa. Không kết thúc tạo ra sự lớn lao của nhà văn, với Nguyễn Huy Thiệp, nghĩa là như vậy.
M.A.T
(SH321/11-15)
.....................................
1. Năm 2012, sau khi in vở kịch Vong bướm, trên nhiều phương tiện truyền thông, Nguyễn Huy Thiệp đã tuyên bố “ngừng viết”. Đến thời điểm này, Nguyễn Huy Thiệp đã hoàn thiện bản thảo một cuốn tiểu thuyết võ hiệp nhưng chưa có điều kiện công bố. Cá nhân tôi đã được đọc bản thảo này và nhận thấy rất nhiều điểm lí thú, độc đáo trong đó.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?