VŨ THỊ KHƯƠNG
(Kính viếng hương hồn những liệt sĩ trên dòng Thạch Hãn)
Hoa đăng trên dòng sông Thạch Hãn - Ảnh: internet
Đêm lễ hội Hoa Đăng
Ngàn vạn bông hoa lửa
Thả xuống dòng sông
Dòng sông
Rực lên như dòng sông lửa
Phun trào từ núi lửa dưới đáy sông
Dòng sông
Những bông hoa lửa
Trên lớp lớp sóng xanh
Bồng bềnh
Huyền thoại
Gọi sao trời
Kể chuyện
Những câu chuyện
Của những chàng trai
tuổi thanh xuân
Họ như những chàng hoàng tử của Long Vương
Áo bào rực đỏ
Hiện lên từ những bông hoa lửa.
Những vì sao
Lấp lánh
Lấp lánh
Là những nàng tiên của Thượng đế
Xuống nghe
Khúc tráng ca
Thời đạn bom
Máu lửa
Nơi đây
Dòng sông bị băm nát từng ngọn sóng
Đôi bờ không một tấc đất vẹn nguyên
Mặt đất và lòng đất
Nổi sóng
Dòng sông dựng ngược giữa trời
Máu và Lửa
Lửa và Máu
Nhuộm đỏ nhau
Tám mươi mốt ngày đêm
Không một phút giây ngơi nghỉ
Trời và Đất
Đất và Trời
Không phương hướng
Lẫn vào nhau
Khét và tanh
Thuốc súng đạn bom và máu và thịt xương
Con người không kịp biết đến sống và chết
Những chàng trai
Tuổi đôi mươi, mười tám
Sương thịt non tơ
Hồn nhiên, trong trắng
Có người trong túi áo
Có phong thư của người yêu,
Chưa kịp đọc
Có người nhớ mâm cơm chiều nồi canh chua mẹ nấu
Có người nhớ
Trên giảng đường ghi không kịp lời giáo sư
Có người nhớ
Và bao nhiêu nỗi nhớ
Đầy ắp như nước sông mùa lũ
Những vì sao, những nàng tiên
Lắng nghe
Lắng nghe
Lệ nhòa đẫm dòng sông
Hết đạn bom
Trời đất bình yên
Những chàng trai
Không về
Mẹ cha mong
Người yêu ngóng…
Sông nước, đất đai, mây trời Thạch Hãn
Họ đã hoá thân thành cây cỏ, bến bờ
Thành đất thiêng của huyền thoại, của thơ
Của bất hủ tráng ca Thành cổ
Dòng Thạch Hãn là tràng hoa lửa
Rực đỏ vĩnh hằng
Lễ hội Hoa Đăng
Xin dâng bông hoa lửa
Trong lòng mỗi người
Thắm một Bông - Hoa - Lửa
(SH306/08-14)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi