LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Khi chàng ngồi dậy giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác người, chàng không còn nhìn thấy gì cả ngoài một vùng đêm tối tăm nhờ nhợ. Cái thứ đen đặc rộng lớn đó đã nuốt vào trong lòng nó những tiếng giục la, tiếng hét thất thanh, rên xiết giã từ sự sống, và cả nỗi đau khốn cùng của những kẻ bị thương, vô vàn sự tiếc nuối trong cuộc tử sinh vô nghĩa.
Minh họa: Nhím
Chàng cảm thấy những bóng người lướt đi trong sương đêm, những bước đi êm ả, dường như đã giải phóng họ khỏi sự giày vò của một đời chiến binh lao khổ. Họ đã im lặng, im lặng nặng nề ngự trị trên khuôn mặt và đôi chân. Dường như đã có một cuộc lột xác hoàn toàn của những người lính, mới đây thôi được nhồi nhét bằng thứ nộ khí và anh hùng. Hà cớ gì những kẻ cùng ông cùng bà, cùng nói một thứ tiếng, cùng đi trên một đôi chân Giao Chỉ lại lao vào nhau?!
Chàng sờ tay lên khuôn mặt mình, sền sệt chất nhầy đáng sợ, của máu hay thứ mồ hôi sa trường không ít lần đã đọng lại sau những cuộc tử chiến sống còn. Gió thu mang tinh khôi của hương rừng xa xăm lướt nhẹ trên cánh mũi. Chàng thấy người con gái đẹp nhất làng đi hái măng trong rừng, trên vai còn gùi cả nhành hoa dại. Nàng mặc áo tím, tím mung lung trong cơn thao thức chiều muộn, như báo hiệu điều gì đó không vẹn toàn. Lúc đó, chàng mới cảm giác sự sống vẫn còn đang hiện hữu. Rồi chàng khóc, điều mà không một người lính trận nào có thể làm, trọn vẹn trong một cuộc chiến.
Nhưng những hố sâu thê lương có thể được xóa đi nhờ lưu vực của dòng sông mê mằn mặn, ướt át. Tạo hóa đã ban cho, có quyền phán xét và kết liễu.
Tiếng khóc khô khốc như đá của lính, lộn chộn giữa bốn bề đêm thẳm.
Chàng hét lên: Ta là lính trận, đồn trú đạo Lưu Đồn. Có ai còn sống không?
*
Thành vắng bóng người. Những bức tường đổ sập xuống lòng phố, những mái nhà cháy đen, những lá cờ rũ rượi, những ngõ nhỏ xanh xao, những dấu chân hốt hoảng... còn vương vất lại dày đặc cả kí ức một màu đen đặc. Chàng ngồi xuống một bậc thềm rêu. Sự hiu hắt thấm trên từng liếp phên, dấu gạch. Chàng lấy gươm gạt một vệt chữ nhất xuống nền dài theo vệt nắng. Chẳng có âm thanh gì ngoài tiếng chuột lúc rúc đâu đó trong đống tro ngồn ngộn cuối góc thành. Một vài cánh chim điêu hót lượn lờ trên tiếng kêu mong cầu chết chóc. Chàng lại vẽ thêm một vệt nữa lên bức tường trước mặt, loang loáng bụi bạc rồi loang loáng... tím.
Một áo tím phất phơ trên cổng Tây thành. Chàng dụi mắt. Áo tím đứng đó, vẻ hờ hững, bất cần. Chàng chống gươm đứng dậy. Áo tím thướt tha tênh tênh bước đi trên mặt thành. Mặt nàng tròn như trăng, da nàng sáng tối thất thường như những áng mây trên núi Đâu Mâu. Nàng nở nụ cười của loài hoa oải hương tàn tạ.
Chàng mở miệng định nói gì nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra. Áo tím vẫy tay, vẫn cười héo úa. Lính trận chạy đến lối bậc thang lên thành. Bước nặng như chì. Đây đâu phải là điều gì đó mơ mộng giữa mùa chiến chinh bạo liệt. Kẻ chinh nhân thường gắn với những bóng hồng, giá như làm cho nó đỡ đầm đìa cái thói nhớp nhơ xác thịt thì hẳn đã là một kết cục viên mãn của hoa.
*
- Ngươi hãy mau về dinh mà bẩm lại với Chúa là bọn Trần Giai(1) đã hàng giặc, để quân Quận Việp(2) vượt qua sông Gianh vào được đất Bố chính. Lũy Thầy khó giữ rồi!
Viên trấn thủ thành Cao Lao nói xong thì thổ huyết, mắt trợn ngược chết trên tay chàng. Những lời của ông nói chàng nghe rõ cả, một lính trận thì không thể không nghe lời chủ tướng. Chàng buông viên trấn thủ khỏi tay mình, để ông nằm vùi trong bãi xác người lổn nhổn đã bốc mùi tanh lợm. Lính trận nhổm người quan sát xung quanh, thấy đuốc của Trịnh quân thấp thoáng xa xa khỏi bãi thây ma tử chiến hồi chiều. Chàng nhặt một thanh gươm lận vào người rồi bò men theo bờ sông đi về hướng tây, cho đến khi không còn thấy ánh đuốc của quân doanh nào cả mới dừng lại rúc vào bụi cỏ ngủ cho đến sáng.
*
Trống thúc quân dồn dập đánh vào bên tai chàng. Trịnh quân tiến ồ ạt về lũy Trấn Ninh, cờ xí giương cao kiêu mạn. Bên sông, thuyền chiến cấp tập chuyển quân. Lính Bắc Hà nhanh nhẹn, tiến không sai một bước lùi không lấn một khoảng, mắt mũi lạ lẫm, ý tứ quan sát cảnh vật hai bên đường. Đi đến đâu cờ Quận Việp trương ra đến đấy, ngạo nghễ mà đường hoàng, thế tiến mà khả thủ.
Nhớ đến lời viên trấn thủ, chàng tức tốc men theo đường rừng đi về hướng Nam báo tin dữ. Chân bước đi nhưng hồn lan man bấu víu vào những tán cây lất phất sương mai. Cỏ ngậy mùi thu sớm, dồn ngập chân chàng. Tiếng ngựa hí vang xa, kèn gọi quân ròn rã. Mùa chiến chinh đánh thốc những cú trời giáng vào tâm hồn lao xao chuyện tre làng, xanh xanh đồng nội, lảnh lót tiếng ca buổi ban mai xa lắc xa lơ.
Có tiếng chuông ngân, tiếng mõ gõ, người xuống tóc cúi gập trên nền đất, đảnh lễ Phật Đài. A Di Đà Phật. Con về đây, về với miền Tịnh độ. Xa lắm, xa lắm, đừng bỏ đi. Đứng lại, chờ... chờ... chờ... Thuyền giác xa xôi, kia đường chánh đạo.
*
Khoảng cách còn lại rất gần, đủ để chàng thấy nàng, người con gái áo tím não nề đẹp trong những cánh buồn u uất. Nàng vẫn bước đi như không. Lính trận gào như ra lệnh: “Đứng lại!”. “Ta phải đi chết”. Nàng trả lời, lạnh lùng sắt đá. Bây giờ thì chàng mới thấy nàng bước đi khập khiễng, đứt đoạn. Lính trận đứng yên, không biết nói gì làm gì nữa. Nàng mặc chiếc quần lụa trắng xộc xệch, cả màu tím của áo cũng đen bẩn một cách khó hiểu. Nàng nhìn lính trận bằng cái nhìn khinh bỉ, rồi lại đi, lại nhìn, lại cười, như một bóng ma hời. Đoạn thành phía trước rách toạc, lộ ra một khoảng vực tử thần, cao hơn mười trượng. “Đứng lại, nguy hiểm!”. Lính trận nói như van lơn, tiến đến gần cách một cánh tay. Áo tím cười nụ cười đắng, nhìn xuống mặt thành. Nàng cau mặt, lại cười đau đớn. “Ta phải đi chết. Phải đi chết. Bọn lính ngươi là lũ khốn!”. Nước mắt áo tím túa ra, như một nguồn suối vắt khô sức mình mà tuôn chảy. Lính trận cảm thông, “đừng”, chàng đưa tay ra rất gần để áo tím có thể nắm gọn. “Đừng! Đừng...”.
Và chàng đã nghĩ đến việc cần thiết phải tuốt trần lưỡi gươm.
*
Vườn thu mùa này tan tác, lá rụng sầu nuột dưới những tán bàng khô khốc. Chàng dẫm lên từng chiếc là rào rạt. Đã hai ngày chưa có một chút gì vào bụng. Những con chim thất thần hót trên những chiếc cành meo mốc. Chàng nhặt cục đá định sẽ cho nó một quả. Nhưng khi nghĩ đến máu, chàng lại thôi. Con chim thấy động bay đi, một nhúm lông của nó lả tả rơi xuống. Lính trận chăm chăm nhìn những cánh trắng bay bay trong gió. Cho đến khi nó đừng lại bên một gốc cây. Một tay nải nằm bên dưới. Gạo. Gạo vương vãi trên cỏ, trên lá.
Chàng chưa kịp mừng thì đã thấy một đôi chân treo thõng trên nó. Một thiếu phụ thắt cổ trên cành cây. Lính trận quỳ xuống, thân run run. Cái xác đã cứng như một thân cây khô. Chàng tuốt gươm đào đất để liệm cho người. Khi đào xong cái hố, chàng mới biết cách đó hai gốc cây ba nấm mồ be bé mới vun đất. Máu dây khô quạch trên thân cây tang tóc. Những dấu tay khóc gào, cào trên mộ. Trên bàn tay thiếu phụ nhòe nhoẹt đất nâu.
Chàng ngậm ngùi xốc lại nhúm gạo đã nổi mốc. Đun nó trong chiếc bát sắt bằng lá khô. Khi chàng ăn xong, trời đã nhá nhem. Lính trận vẫn bước đi, vô định về hướng Nam. Gió heo may tạt vào mặt, lạnh như những linh hồn rủa hờn căm phẫn. Rẽ qua một lối mòn, trước mặt là một làng nhỏ, đổ ập trong bóng tối. Làng quê ngoại. Đây đó, lửa khói còn bốc lên, tanh khực máu khô.
Lính trận quỳ xuống, vục người lên đất.
Con không muốn đi nữa. Con không muốn đi nữa!.
*
Nàng quay lại, khẽ đưa tay. Lính trận vươn tay ra. Nàng rụt tay lại. Cười khanh khách. Rồi nhớm mình. Lính trận hụt hẫng, bàng hoàng nhìn áo tím thả mình xuống thành sâu, như một chớm gió, tím ngan ngát, cứa vào nỗi đau bất chợt hạnh ngộ, phút chốc li tan. Nàng là ai, chàng không cần biết, nàng thế nào, chàng không cần biết. Lính trận như muốn lao theo. Chàng thấy nàng nằm nghiêng dưới đất thành, mặt ngửa lên trời thao thiết.
Chàng rùng mình căm phẫn, nhảy phốc xuống đám Trịnh quân đang bước tới. Lính trận điên đảo chém, bổ, đâm... Chàng quỵ xuống, quăng gươm ra xa. Tiếng mõ đều đều vang trong tâm trí. Coốoc coốoc coốoc... Chàng ôm đầu chạy bổ khỏi tòa thành.
Lúc ấy, nàng bay lên, trên tay cầm bông hoa tím, cũng buồn như nàng. Nàng vẫy tay, cười tinh khôi. Đó là nụ cười đẹp duy nhất chàng thấy từ bấy cho đến nay.
*
Lính trận dừng chân, chống gươm đứng trước ngôi chùa cổ giờ đã thành đống gạch không rõ hình thù. Những búp sen lăn lóc nằm im trên thảm lá mục. Ngôi chùa nổi lên trên nền đen của trời chạng vạng, buồn ai oán. Chàng bước qua đống gạch. Mùi nhang đèn phảng phất đâu đây. Chàng tựa mình vào cửa chính của Đại hùng bảo điện, lim dim. Chàng thấy một người đàn ông cạo trọc đầu, ngồi tĩnh lặng trong bóng tối, lảng vảng đâu đó trong kí ức mình. Chàng mở mắt, bên tay chàng, tượng Phật rỡ ràng trong đêm tối, những ánh quang mềm dịu lạ kì, tỏa những vệt dài lung linh như là tưởng tượng. Một động lực vô hình đã kéo chàng đứng dậy, cúi xuống, quỳ chân đảnh lễ. A Di Đà Phật. Đường xa, đường xa, bờ chánh giác muôn vàn nẻo khó... xin dừng lại... quay đầu.
Con rắn mối thậm thụt qua lớp lá nhìn chàng như thể một hóa thân can đảm. Chàng vẫn chưa biết, lũy Thầy đã xẻ đôi. Nhưng ở đây, lính trận thấy bình an. Chàng nằm xuống, ngủ bên bậc thềm. Trong cơn mê, những tiếng bước chân hối hả nện trên đất, gió thổi ào ạt, những mạch huyết ấm nóng tràn qua da người, bung ra ngoài và nén vào đó sự trống trải, bất lực. Chàng thấy vị tỳ kheo hóa duyên trên con đường làng xanh bóng tre, qua mương nước, chiếc cầu, cánh đồng sen nguội gió... Trên con đường ấy, lính trận thấy một hình dung ngút ngát của thế giới xa mù, sẽ không còn khổ đau, không còn thù hận, không còn tham muốn... Con ơi, gieo một chút duyên dưới cội bồ đề. Nam mô...
*
Con vẫn còn mơ giấc mơ ấy, con nằm ngủ dưới cội bồ đề.
Thầy biết con sẽ về đây, con sẽ về, lính trận năm 1774. Tôi nói.
Con là ai?
Con là hạt bồ đề. Con đã nằm ngủ bên gốc cây ấy hơn 200 năm rồi.
Đúng là lính trận đã đập đầu lê gối từ cổng tam quan để vào đến Đại hùng bảo điện. Bầy rắn mối lò đầu qua đám lá nhìn, ngưỡng mộ.
Chùa im ắng, những con chim thôi cất tiếng hót. Chỉ có tiếng chuông là còn vọng ngân, lật trở giấc thiền để cô lại những hạt A-lại-da thức(3) thành một thứ thuần túy chân như.
Con đã là người! Chàng thầm thì.
Huế, tháng 10/2012
L.V.T.G
(SDB10/09-13)
....................................
1. Tướng chúa Nguyễn, đầu hàng quân Trịnh, làm hướng đạo trong đợt tấn công vào lũy Thầy năm 1774.
2. Tức Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776), tướng của chúa Trịnh, có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộc nam tiến đánh Đàng Trong tới Quảng Nam, phá được cả lũy Thầy.
3. Là một khái niệm của Phật giáo, theo âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa là cái kho, danh từ Hán-Việt gọi là tàng. A-lại-da thức được xem là thức căn bản của mọi hiện tượng, nên còn gọi là Hàm tàng thức. Thức này chứa đựng mọi sư trải nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Tất cả mọi chủng tử không phân biệt thiện ác, tốt xấu, mê ngộ và khổ vui, ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức này. A lại da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng tử tăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân duyên thuần thục chín muồi thì mới được đi tái sanh vào những thế giới thích hợp với căn nghiệp của mình.
DƯƠNG QUYẾNHuệ là một hoa khôi. Đài các, cao sang, quí tộc, tài năng, giàu có và hoang dã. Đó là nét đẹp trời sinh ban phát cho nàng.Huệ học rộng, đủ chất "cầm kỳ thi họa". Bốn môn cổ xưa ấy, môn nào Huệ cũng xuất sắc. Cô đỗ hai bằng đại học sử học, vi tính. Ngoài ra, cô còn đoạt luôn một bằng tiếng Anh tại Anh Quốc.
VŨ QUỲNH HƯƠNGLGT: Vũ Quỳnh Hương, tên thật là Nguyễn Vũ Quỳnh Hương, sinh năm 1957 tại Huế, hiện sống và làm việc tại San Jose, California (Hoa kỳ), đã có nhiều sáng tác thơ, văn trên các tạp chí Văn, Văn học và nhiều tuyển tập thơ văn ở hải ngoại. Tiêu biểu trong số đó là CUNG THỨC CÙNG THƠ MỘNG (thơ, in chung với Trân Sa, Lê Thị Huệ), MIỀN VĨNH PHÚC (truyện vừa)...
TRẦN THÙY MAIChúng tôi đến bản Tok, trời đã quá trưa. Người bản làm nương chưa về.. Dưới giàn bí, cô gái bản nằm ngủ hồn nhiên trên chiếc võng.
HỒNG NHU1.Ở độ cao ngọn núi trên một nghìn mét này, trong rừng sâu có lẽ chưa ai bước chân tới, dưới gốc một cây trâm già to cỡ hai người ôm tỏa bóng vòm hình thang chéo mỗi khi mặt trời chiếu thẳng góc, có một túp lều nhỏ lợp bằng tranh săng đã cũ trông như một cái nơm úp chụp xuống đất.
TRẦN THÙY MAIKhi mới vào tu học, tôi được giao chăm sóc vườn hoa trước chùa. Tên vườn là Vô Ưu, nghĩa là không phiền não. Vậy mà tôi đã bắt đầu ưu phiền từ đó. Tiết mạnh xuân, thầy tôi cho dựng thêm mấy nếp nhà cỏ men hồ. Đệ tử dạo này đã hơn mười người, phải có chỗ để tĩnh tâm, tụng niệm. Mỗi nếp nhà được đặt một cái tên. Nhà tôi ở ngay bên khóm hoa súng tím, gọi là Lăng Hoa Cốc.
DƯƠNG ĐỨC KHÁNHCho đến thời buổi này, cái chợ làng Thanh vẫn đông một khúm lèo tèo dưới tán cây sen cổ thụ vào buổi chiều xế. Vẫn làng tàng, xập xệ như cái tên gọi xưa nay: Chợ Kệ!. Cái tên chẳng ăn nhập gì đến tên làng, tên đất nhưng nó gắn liền với bản chất xuề xòa, nhân hậu của những lớp người quê bao đời nghèo khó.
LINH CHI Quê Hoàng, một làng quê chiêm trũng miền Trung, đẹp và yên bình. Hoàng rất yêu quê nhà không chỉ bởi vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, mà bởi đó còn là nơi chắp cánh cho những ước mơ hoang tưởng non nớt thuở xa xôi của Hoàng.
NGUYÊN QUÂNNhững buổi chiều nắng ráo, gã thường ra ngồi ở đây, dọc theo hai triền sông, nở đầy những bông hoa dại - loài hoa vươn dài, xòe những chiếc lông màu tím như cái đuôi chồn. Trong bóng chiều dần dần ngả màu tối, gã vẫn ngồi ngắt từng cánh... từng cánh hoa ném xuống dòng sông.
VĂN ANMặt trời đã khuất sau rặng núi xa xa, bầu trời chỉ còn sót lại những vệt sáng yếu ớt như những chiếc nan quạt hắt lên từ phía chân trời.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.
ĐỖ KIM CUÔNGNấn ná mãi tôi mới quyết định đi thăm Hiền. Quãng đường hơn trăm cây số, vượt qua đèo Cả không có gì đáng ngại. Chỉ hơn ba giờ đồng hồ ngồi xe đò và hơn một giờ nữa trên chếc xe ngựa của ông Sáu cụt chân là tôi đã có thể tới làng Vĩnh Hiệp Nam, về ghềnh Đá Đỏ. Nhà cô giáo Hiền ở đó.
LÊ MAICơn mưa chiều sầm sập kéo tới, mưa đổ bì bộp xuống mái nhà; hạt mưa nặng đến nỗi Hoàng tưởng như những tấm tôn phải oằn rướn lên chống đỡ; nước từ các máng xối tuôn ra ào ạt kéo theo hàng đụn lá khô, cỏ rác tràn đầy cống ngoài đường. Mới có năm giờ chiều mà như tám giờ tối.
HƯỚNG DƯƠNGTruyện ngắnMùa đông năm ấy tôi phải đi công tác tại một thành phố nhỏ ven biển. Khách sạn tôi trú chân nằm trên một ngọn đồi, nó không sang trọng, bề thế như nhiều khách sạn khác. Nhưng bù lại, nó hướng mặt về phía đại dương. Địa điểm này thật sự lý tưởng cho khách du lịch vào mùa hè, còn mùa đông thì chỉ có những người đặc biệt hay những công việc đặc biệt người ta mới tìm đến đây nghỉ lại. Một người bạn thân đã cho tôi địa chỉ của nó. Tôi khá hài lòng nếu như bạn hàng của tôi không bắt tôi chờ bão tan rồi mới đáp máy bay đến ký hợp đồng.
THANH QUẾ(Chùm truyện mini)
TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)
TRẦN HẠ THÁP (tiếp theo)
VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...
PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.
PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.
NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.