Bức tranh vân cẩu

15:49 20/08/2025
Khai bút năm Bính Tuất - 1946, nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã cảm xúc đậm đà với Xuân như 10 hoặc 15 năm sau tuổi thất thập cổ lai hy của chính mình: Giở tấm gương vàng, soi tóc bạc,/ Sương pha tuyết điểm lại càng tươi.

Càng thọ càng muốn được thêm xuân và lại càng mong ước tâm hồn luôn luôn tươi trẻ như hoa; giữ được phong thái ung dung, thanh nhàn vào hậu vận của kiếp người:

Nghêu ngao vui thú yên hà,
Tám mươi xuân vẫn đượm đà với xuân.

Tin rằng ở tuổi càng cao lại thấy đời sao chóng qua, khác nào bóng câu lướt cửa sổ, bóng nhạn đổ trên mành trúc, như giấc mộng Hoàng Lương, như ảnh tượng mây trắng hoá hình chó xanh.

Trông lên trời thì thấy "bạch vân thương cẩu"; ngó xuống dưới đất lại nhớ tới câu "thương hải biến vi tang điền". Tuy hai hình tượng nhưng chung quy lại là một, đều nói lên lẽ đổi thay chớp thoáng ở đời. Có những điều cứ ngỡ là huyền thoại vào hôm qua mà sáng mai thức dậy chúng lại trớ trêu thay trở thành hiện thực. Dẫu tài trí, văn minh tiến bộ có sẵn máy điện toán bên mình cũng không ai báo được trước việc gì sẽ xảy ra, mà chỉ nói theo lối bình luận nhà nghề của giới làm báo: thời gian sẽ trả lời. Từ hy vọng đến hiện thực, con đường còn xa lắm. Bật mí được chuyện thâm cung bí sử cũng phải chờ thời gian, việc của lịch sử đành gác lại cho thế hệ con cháu đời sau giải mã, đời người ngắn lắm, tựa gang tấc mà thôi:

Ngẩn ngơ nhẽ! Bóng bạch câu một nhoáng
Xót xa thay! tranh
thương cẩu trăm hình
                             
(Tần cung oán)

Sống giữa thời buổi kinh tế thị trường, dẫu cho ai đó phải xuôi ngược bắc nam, bon chen vật lộn với cuộc sống quay cuồng, nhân dịp Tết Giáp Tuất, 1994 xin cầu mong sớm về sum họp với tổ ấm gia đình. Quanh năm chỉ việc đua với tốc lực, chạy như chó đạp lửa. Đua tranh giựt xé đủ điều. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ, ba chìm bảy nổi trên đường thang mây hoan lộ đã viết: Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn.

Kể lại dăm ba mẩu chuyện về bức tranh vân cẩu để thưởng thức cái đẹp, vẻ phong hoa tuyết nguyệt của trần thế mà chẳng tốn hào bỏ xâu theo tiếng trống chầu đầy bôi bác, lúc quên lúc nhớ: không đáng đánh lại đánh, đáng đánh lại quên đánh.

Cái trò đời đánh trống chầu, sập cu, làm mối, chấm phẩy bằng chữ nghĩa cũng khác nào chuyện bạch vân thương cẩu vậy.

Ngang ngay sổ thẳng trong cách viết chữ Hán là điều cơ bản. Tuất gợi lên hình tượng con chó thì na ná đồng dạng với chữ thú là lính thú, chữ mậu vị thứ 5 trong 10 thiên can. Viết khác nhau ở chỗ biết hạ dấu gạch ngang, dấu chấm và không dấu cho trúng chỗ. Quy ước dễ nhớ là: Tuất ngang, thú chấm, mậu không chi.(戌 = tuất; 戍 = thú ;戊 = mậu).

Đi hạch, đi thi mà viết ám tả nhầm thì tai hại bạc vạn; đổi chữ biến nghĩa, e rằng chỉ có việc khóc lộn cười như tâm trạng cô gái lên xe hoa về nhà chồng mà thôi.

Tuất không phải là chó nhưng gợi lên hình tượng ấy. Khuyển, cẩu, cầy đều đồng nghĩa. Chó lớn gọi là Khuyển, chó nhỏ gọi là Cẩu, chó con gọi là Cầy. Sài có tục danh gọi là chó sói, tên chữ là Sài cẩu. Lang có tên Mao cẩu cũng là loại họ hàng với Sài. Đồng dạng với con Lang có con Bái, khác nhau ở chỗ, chân trước con Bái ngắn, chân trước con Lang dài.

Con chó là cậu con sài, sài thấy chó thì quỳ xuống. Biết chỗ nào có mồi thì con bái phải cõng con sài đi. Loài muông cẩu có tôn ty trật tự, đẳng cấp và lại biết lấy lễ đối với nhau theo luật rừng một cách tự nhiên.

Loài chó còn có tên là Địa dương hoặc Canh hiến. Đọc lên nghe thanh thoát, chẳng phảng phất gì là chó má cả mà trái lại còn gợi lên hình ảnh đẹp và trung nghĩa nữa.

Con chó có ba đức lớn: không quên chủ, không lộn đường, không sai việc giữ nhà ban đêm:

Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
Răng rụng, lâu năm nó phải già.
                             
(Huỳnh Mẫn Đạt)

Tục ngữ đúc kết thành kinh nghiệm quý: Lạc đường theo đuôi chó, lạc ngõ theo đuôi trâu. Chó nhất thiết không đi lạc đường, không sai ngõ, không sai hẻm, không sai cổng mà báo đúng số, đúng cửa, đúng nhà, đúng người. Dân gian còn tin rằng sau khi chết còn được chó dắt qua cầu ở âm phủ nên có lời tự nhủ rằng: Đập chó phải ngó đằng sau hoặc chó béo đẹp mặt chủ nhà để làm phước báu cho đời sau.

Có những con chó nổi tiếng với sử sách như Lữ Ngao là con chó Ngao do rợ Tây Lữ đem cống vua Vũ Vương nhà Hạ, con chó Cược của tên trộm dám cả gan cắn vua Nghiêu rất nhân ái. Tống Thước là tên con chó có nghĩa của người Tống. Hàn Lư là tên con chó màu đen, chạy nhanh và dũng cảm của nước Hàn. Theo Tấn Thủ, Lục Cơ có con chó quý tên là Hoàng Nhĩ.

Năm 1858, Đặng Huy Trứ có làm bài thơ bằng chữ Hán với tựa đề "Quân tử bất tố san" nghĩa là quân tử không ăn không ngồi rồi, có đoạn viết:

Tống Thước, Hàn Lư, Lục Hoàng Nhĩ
Bãi vĩ đao đầu thụ chủ tử,
Chung nhật giảo lạp, dạ phệ thủ,
Chích bất đáo môn, giảo thơ tử.

Dịch là:

Tống Thước, Hàn Lư và Lục Hoàng,
Chủ ban một miếng, ngoe nguẩy mừng
Ngày ngày đua săn, đêm sủa, giữ,
Trộm nào dám đến, thỏ đường cùng.
                   
(Vũ Đình Liên và Trần Lê Văn dịch)

Lục Cơ ở kinh lâu không được thư nhà, đùa nói với chó: Ta lâu không có thư nhà, mi có thể giúp ta được không? Chó vẫy đuôi. Lục Cơ bèn viết thư bỏ vào ống tre buộc vào cổ chó. Chó tìm về quê đưa thư rồi lại mang thư đến nhà.

Hoàng Quang (1740 - 1800) viết Hoài Nam khúc, trong đó có câu hay đến nỗi người đời nhắc như lời sấm truyền, đoán biết trước năm Nhâm Tuất, 1802 vua Gia Long thu giang sơn về một mối:

"Chó ngoắt đuôi mừng thánh Chúa."

Cảm kích vì nghĩa tình chung thủy của ẩn sĩ ở đất Thai Dương, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, nhà vua sai sứ đến mời Hoàng Quang ra làm quan thì than ôi ông đã chết rồi.

Con chó tỏ vẻ mừng rỡ bằng biểu hiện vẫy đuôi mừng chủ. Hễ con chó nào không hội đủ ba ân trên thì chắc rằng không phải là chó nữa, hình tượng chó đã tan nát rồi. Đó là một loại "cầy thác", khó sống nổi.

Tốt nhất là tìm cách đưa đường, dẫn mối con chó ấy về khu "mộc tồn" mà nhập cảnh, nhập cuộc cho yên sự đời. Địa chỉ, điện thoại, Fax-Telex để giao dịch theo lời dân gian: "đường đi ở miệng”.

Chó còn là con sinh để tế thần. Thời cổ đã định thành lệ, thành lễ; tế thần cổng dùng con chó. Cầu thần cho mở cửa, đóng cửa đúng giờ, đúng thời; mong rằng điều tốt, điều lành tìm đến; còn điều dữ, không tốt thì đi chỗ khác chơi, đi phắt cho xa xứ ngái sở.

Thời Tấn, Triệu Vương Luân bán quan bán tước. Có tiền là được quan, có sắc bằng. Những viên ngự sử được gọi là ngôn quan hay đài quan vì phải có tài ăn nói, biện thuyết. Quan đài đội mũ có đuôi con điêu do sẵn có tiền bỏ ra mua được phẩm hàm, chức tước rất nhiều. Đa văn cho nên bị trở thành "đa sĩ". Văn là tiền chớ không phải là văn chương chữ nghĩa. Bởi vậy người đời có câu chê trách = "điêu bất túc, cẩu vĩ tục", nghĩa là "đuôi con điêu chưa đủ, thì cứ việc lấy đuôi con chó mà nối".

Từ sự việc ấy mới có điển tích "nối điêu" mà những người họa thơ dùng để tỏ ý nhún nhường. Thúc Sinh vốn là tay sợ vợ, nhưng lỡ mê gái, ăn ở với Thúy Kiều một cách vụng trộm. Có thể xem họ Thúc như là kẻ khơi dậy chuyện tắm hơi "mát-xa" ở chốn lầu xanh, chàng những thích nhìn trộm Thúy Kiều tắm, đôi bên lên trò xướng họa:

Hay hèn lẽ cũng "nối điêu”,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
         
(câu 1317-1318, Truyện Kiều)

Trộm nghĩ, những người không chịu đọc, có chăng chỉ đọc qua loa, và thích nghe nói nhiều hơn, rồi chữ nào cứ chữ nấy mà dứt nghĩa lý, mới thật là đi theo đường mòn của các ông ngự nối điêu, nhân lúc trà dư tửu hậu chỉ bàn được việc chó chết, chó cán xe, xe cán chó....

Năm Giáp Tuất, 1934, cụ Phan Bội Châu tiếc thương con Vá vì nghĩa dũng đã chiến đấu chống lại bầy dê mà sinh bệnh rồi đau chết, trở về với nước chó (chữ dùng của cụ Phan). Cụ cho mai táng và lại khắc bia đề chữ rằng "nghĩa dũng chi trũng" và lại có chua thêm chữ quốc ngữ "Con Vá" nữa. Cụ lại bỏ công viết bài minh; còn bài lịch sử con "Vá" thì gởi đăng tuần báo Trung Kỳ, ở số 14 ra ngày 15.4.1936. Năm Đinh Sửu, 1937, con Ky lại đi theo đường con Vá, cụ lo chôn cất và lại dựng bia mộ, đề chữ "nhân trí cẩu ky chi trũng". Cả thiên hạ phải sửng sốt, cảm phục trước việc làm khác thường, có dụng ý của Ông Già Bến Ngự.

Cái tâm tư, tâm nhẫn của cụ Phan hoàn toàn trái nghịch với lòng dạ của ông Tôn Thất Thuyết. Ông Thuyết có bệnh mất ngủ, không chịu nổi được tiếng chó sủa và tiếng kêu của loài giun dế. Cho nên cả khu vực chung quanh và gần kề nơi ở và nơi ngủ của ông thì giống chó và loài giun dế không tài nào sống còn được. Cả một vòng đai trắng cho các loài sinh linh bất hạnh ấy. Lính tráng lo giết chó, nấu nước sôi dội xuống đất để trừ khử hai loài giun dế cho ông tướng dễ mơ màng giấc điệp.

Còn tai quái, chọc trời khấy nước, ngang tàng là Ông Ích Khiêm. Hình như sau khi vua Tự Đức băng hà rồi thì ông lại coi trời như ngọn rau má, quyền thần có tầm cỡ phó vương như các quan Phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết ông coi cũng là thường vì trong những ngày đi quân thứ ở Sơn Tây, Tuyên Quang vào những năm 1868, 1869, 1870 thì phẩm tước đều ngang hàng Tán tương, Tán lý; đã cùng nhau vào sinh ra tử, thăng giáng như ông vậy.

Một hôm, ông lập lừa mượn cớ đãi cơm các quan đại thần văn võ, ông mật chọn đầu bếp nấu toàn miếng ngon canh ngọt bằng thịt chó. Loài hổ xem thịt này như là rượu bổ đối với người. Trong tiệc, thừa lúc đang ngon chén, có quan vui miệng hỏi ông cho nấu món thịt gì mà xơi ngon quá là ngon, ông liền đưa tay chỉ và nói lớn như để trấn át rằng: "Trên chó, dưới chó, giữa chó, toàn là chó cả".

Cả thiên hạ, bá quan văn võ chỉ biết ngã ngửa chịu trận theo lối nói đá móc khích khí của ông tướng văn võ kiêm toàn. Mửa mật, nghẹn họng chỉ vì:

Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào,
Khối tình ngậm mãi, biết làm sao?
                   
(Nguyễn Gia Thiều)

Ông Khiêm ơi! Tên ông là Khiêm mà ông chẳng khiêm, chẳng nhượng chút nào. Lúc còn vua Tự Đức ông còn biết sợ. Bài Dụ của nhà vua về việc "Giáng chức và khuyên răn ông Ích Khiêm" đề ngày 5 tháng 4 năm Tự Đức thứ 36, 1883 nhằm để khuyên ông đừng "càn giỡ" mà phải "thuần nhã" hơn.

Một hôm, vua Tự Đức chọn mật văn thần (mật là thân thiết, tín cẩn) là Phan Văn Nhã thảo một bài văn Ngọc Diệp. Khi thảo xong, ông Phan mở một tiệc rượu, mời các đồng liêu tới dự, nhân thể để khoe tài. Không ngờ trong số các quan tới dự có người hay chữ hơn, tỏ ý chê bài văn có mấy chỗ hỏng về mặt văn lý. Rồi đôi bên lời qua tiếng lại, cố tranh cãi phần đúng thuộc về mình. Văn mình vợ người, ai cũng cho mình là đúng, là hay, là tuyệt nên chẳng chút nhường nhau. Tiếc thay! các quan lớn không tự kiềm chế được, đã gây thành chuyện đánh bậy. Quả đúng là đầu khẩu chiến sau biến thành "chiến trường" với vũ khí bằng gậy gộc, chai ve, xô xị chỉ vì chuyện văn chương chữ nghĩa:

Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tại thị (rượu vào lòng qua nhiều như chó cuồng tại chợ). Chuyện vỡ lỡ ra, dội vào tận nội thì khó lòng mà ém nhẹm, dập cháy được nữa. Nhân biết Cao Bá Quát cũng có mặt trong "buổi hội", vua Tự Đức liền gọi họ Cao vào hỏi đầu đuôi xuôi ngược. Cao Bá Quát kính cẩn tâu một mạch bằng bài ký tuyệt bút, đầy sinh động. Chỉ có 23 chữ mà gói gọn tất cả sự việc:

Bất tri ý hà, lưỡng tương đấu khẩu. Bỉ viết cẩu, dĩ chí đấu ẩu. Thần khủng phệ thần, thần hoảng thần tẩu.

Nghĩa là:

Chẳng biết ý sao, hai bên cãi nhau. Bên này bảo chó, bên kia bảo chó. Kia này đều chó, rồi đến đánh nhau. Thần sợ cắn thần, thần sợ thần chạy.

Quả là họ Cao có tài ứng đối, tường thuật tại chỗ và lại lách bút để tránh né tài tình. Văn già văn non là ở những chiêu như rứa đó. Một khi văn chương động tới thiên đình chỉ mới ở mức độ "chợt sơn" hoặc "bỏng trán" ngoài bì phu của tội "yêu thủ yêu ngôn" thì nhà văn trong cuộc đã có kế "tẩu vi thượng sách" trong 36 chước. Chạy làng của giới văn nghệ là thế a?

Riêng tài biện thuyết, mượn miếng trả miếng của sứ thần được chọn đi ra nước ngoài lại khác. Chọn người diệu trí, đa mưu túc kế, sành lễ nghi và nhất là có đủ can đảm.

Theo Đông Châu Liệt Quốc, hồi thứ 69, Án Anh tự là Bình Trọng, làm quan đại phu nước Tề, phụng mệnh Cảnh Công đi sứ nước Sở.

Sở Linh Vương bảo các triều thần rằng:

- Án Anh người gầy thấp, bé nhỏ, cao không đầy năm thước (thước Lỗ Ban) mà chư hầu ai cũng phải trọng là người hiền. Nay trong các nước chỉ có nước Sở ta là cường thịnh hơn cả, ta muốn làm Án Anh xấu hổ để tỏ rõ cái uy của nước Sở ta. Các người nghĩ xem có diệu kế gì không?

Quan Thái tể là Viễn Khải Cương tâu trình mật kế. Vua bèn sai khoét một lỗ thủng ở bên cửa Đông thành độ năm thước, rồi truyền cho quân lính khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa thành lại, bảo cứ chui lỗ khoét mà vào.

Khi Án Anh tới thì cửa đóng. Bèn sai quân gọi. Quân canh thành chỉ vào lỗ khoét bảo:

- Quan tướng quốc chui qua lỗ nọ, cũng đã chán rộng, lựa là phải mở cửa!

Án Anh bèn nói:

- Đó là lỗ chó chui, chớ không phải lỗ người đi. Có sang nước chó, mới vào cửa chó, chớ sang nước người phải đi cửa người.

Quân lính giữ cửa đem lời ấy tâu với Sở Linh Vương. Nhà vua nói:

- Ta muốn làm nhục hắn, ai ngờ hắn lại làm nhục ta!

Rõ ràng là quýt dày có móng tay nhọn. Trí tuệ của quân sư nước Sở chỉ mới đạt hàng quạt mo. Sứ thần nước Tề quả đúng là trạng, phản ứng nhanh chớp hơn điện.

Năm Gia Long nguyên niên tức năm Nhâm Tuất, 1802, nhà vua phái Hộ bộ Thượng thư Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ, Binh bộ Tham tri Ngô Nhân Tĩnh và Hình bộ Tham tri Hoàng Ngọc Uẩn làm giáp và ất phó sứ, đem sắc ấn của Thanh triều phong cho Tây Sơn và đồng thời áp giải bọn giặc biển (người phương Tây gọi là Les chiens de mer) là bọn Mạc Quan Phù sang Quảng Đông trao cho viên tổng đốc tỉnh ấy để tâu Thanh triều xử trí. Một phái bộ khác của nước ta đi sứ tiếp theo để cầu phong do Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định làm chánh sứ, Lại bộ Thiêm sự Lê Chính Lộ làm giáp phó sứ, Đông các học sĩ Nguyễn Gia Cát làm ất phó sứ.

Nhà Thanh chuẩn cho cả hai sứ bộ đến kinh đô một lần. Theo quốc thư của vua Gia Long gởi vua Gia Khánh xin đặt tên nước là Nam Việt. Vua Thanh lấy cớ danh xưng Nam Việt cùng với Đông Việt và Tây Việt (tức Quảng Đông và Quảng Tây) trùng nhau nên không chấp thuận.

Lại thêm nhiều quốc thư gởi tiếp cho Thanh triều hai ba lần và nhất là do tài khéo biện bạch, ứng đối của hai sứ bộ cho nên cuối cùng vua Gia Khánh phải xiêu lòng. Quốc thư có câu đáng giá ngàn vàng vì tự nó nói lên danh dự và quốc thể bề thế của nước ta:

"Nếu không cho đổi tên nước thì không thụ phong".

Vua Thanh sợ mất lòng vua ta, giữ tình giao hảo nên lấy hai chữ VIỆT NAM đặt tên nước, rồi phái Tế Bố Sâm mang các sắc quốc ấn sang phong cho vua Gia Long làm quốc vương Việt Nam. Quốc hiệu VIỆT NAM có từ sự kiện lịch sử trọng đại ấy. Rồi đến năm Minh Mạng thứ 19, 1838 tức năm Mậu Tuất mới đổi tên nước là Đại Nam.

Theo vòng quay thời gian, năm Tuất này cách năm Tuất khác là 12 Tết. Dân lo giữ nước, vật giúp người, nương tựa vào nhau. Con chó giữ nhà mà lại cũng góp phần giúp nước cứu dân. Năm Minh Mạng thứ 17, tức năm Bính Tuất, 1826 có Chỉ của vua ban rằng:

Cho biền binh ở vệ Võng Thành nuôi 100 con chó săn, mỗi tháng chi cấp gạo lương để nuôi là 20 phương, cho mỗi đội trong vệ ấy chia nuôi 10 con, và cho tên binh đinh trong đội chuyên việc chăn nuôi, trừ lệ lương ra mỗi tháng cấp thêm một quan tiền, để chuyên nuôi bầy chó ấy, phòng khi săn bắn.

          (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, quyển 176)

Vì không khéo lo giữ nước, Việt Nam phải lần lượt ký các hòa ước với Pháp vào các năm Nhâm Tuất, 1862; Giáp Tuất, 1874. Mất nước dần hồi; đến năm Đồng Khánh nguyên niên, tức năm Bính Tuất, 1886 thực dân Pháp đặt xong nền bảo hộ:

Năm Tuất sao phướng mọc trên Nghê
Tây qua lấy nước, cực con dân ba bốn bề.

Tết Nguyên đán là những ngày lễ tiết thiêng liêng của dân tộc, người Việt ở khắp nơi, trong nước và ngoài nước đều trào dâng ý thức uyên nguyên trở về cội nguồn, về sơn hà xã tắc. Nơi nơi, khắp chốn, ai nấy đều chúc mừng, chúc thọ, thiết tha cầu mong con rồng Việt Nam vươn mạnh vào thời mở cửa.

Ngày xưa, lời chúc của thần dân và bề tôi lên bề trên vẫn dùng những nhóm từ thông thường như biểu hiện sự trân trọng, cung kính như các thành ngữ "khuyển mã xỉ trường", "tình chó ngựa đều ơn":

Giải được lòng khuyển mã là vinh
                    (Cao Bá Nhạ, Tự tình khúc)

Vài nét chấm phá thô thiển về bức tranh vân cẩu, góp phần đón xuân và vui xuân. Cầu chúc mọi người, mọi nhà, mọi chốn đều được thần cửa, thần cổng rước mời hồng phúc đến. Không phải chỉ một phúc, chỉ hai phúc, chỉ ba phúc mà là NGŨ PHÚC. Đó là lời chúc: một THỌ, hai GIÀU, ba YÊN VUI, bốn HAM VỀ ĐỨC, năm TRỌN ĐỜI KHỎI BỆNH TẬT, KHỎI TAI NẠN. Thiết nghĩ, ấy là cách bảo hiểm con người và tài sản hữu hiệu nhất, tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất ở thế gian. Tin rằng "của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ".

Ngoài “tầm nhìn xa” thì con chó dù trung nghĩa đến đâu cũng bất kham giữ của cho chủ được, chỉ vì lực bất tòng tâm mà thôi.

Huế, ngày 15.12.1993
L.Q.T.
(TCSH60/02-1994)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)

  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.