Càng thọ càng muốn được thêm xuân và lại càng mong ước tâm hồn luôn luôn tươi trẻ như hoa; giữ được phong thái ung dung, thanh nhàn vào hậu vận của kiếp người:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Tám mươi xuân vẫn đượm đà với xuân.
Tin rằng ở tuổi càng cao lại thấy đời sao chóng qua, khác nào bóng câu lướt cửa sổ, bóng nhạn đổ trên mành trúc, như giấc mộng Hoàng Lương, như ảnh tượng mây trắng hoá hình chó xanh.
Trông lên trời thì thấy "bạch vân thương cẩu"; ngó xuống dưới đất lại nhớ tới câu "thương hải biến vi tang điền". Tuy hai hình tượng nhưng chung quy lại là một, đều nói lên lẽ đổi thay chớp thoáng ở đời. Có những điều cứ ngỡ là huyền thoại vào hôm qua mà sáng mai thức dậy chúng lại trớ trêu thay trở thành hiện thực. Dẫu tài trí, văn minh tiến bộ có sẵn máy điện toán bên mình cũng không ai báo được trước việc gì sẽ xảy ra, mà chỉ nói theo lối bình luận nhà nghề của giới làm báo: thời gian sẽ trả lời. Từ hy vọng đến hiện thực, con đường còn xa lắm. Bật mí được chuyện thâm cung bí sử cũng phải chờ thời gian, việc của lịch sử đành gác lại cho thế hệ con cháu đời sau giải mã, đời người ngắn lắm, tựa gang tấc mà thôi:
Ngẩn ngơ nhẽ! Bóng bạch câu một nhoáng
Xót xa thay! tranh thương cẩu trăm hình
(Tần cung oán)
Sống giữa thời buổi kinh tế thị trường, dẫu cho ai đó phải xuôi ngược bắc nam, bon chen vật lộn với cuộc sống quay cuồng, nhân dịp Tết Giáp Tuất, 1994 xin cầu mong sớm về sum họp với tổ ấm gia đình. Quanh năm chỉ việc đua với tốc lực, chạy như chó đạp lửa. Đua tranh giựt xé đủ điều. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ, ba chìm bảy nổi trên đường thang mây hoan lộ đã viết: Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn.
Kể lại dăm ba mẩu chuyện về bức tranh vân cẩu để thưởng thức cái đẹp, vẻ phong hoa tuyết nguyệt của trần thế mà chẳng tốn hào bỏ xâu theo tiếng trống chầu đầy bôi bác, lúc quên lúc nhớ: không đáng đánh lại đánh, đáng đánh lại quên đánh.
Cái trò đời đánh trống chầu, sập cu, làm mối, chấm phẩy bằng chữ nghĩa cũng khác nào chuyện bạch vân thương cẩu vậy.
Ngang ngay sổ thẳng trong cách viết chữ Hán là điều cơ bản. Tuất gợi lên hình tượng con chó thì na ná đồng dạng với chữ thú là lính thú, chữ mậu vị thứ 5 trong 10 thiên can. Viết khác nhau ở chỗ biết hạ dấu gạch ngang, dấu chấm và không dấu cho trúng chỗ. Quy ước dễ nhớ là: Tuất ngang, thú chấm, mậu không chi.(戌 = tuất; 戍 = thú ;戊 = mậu).
Đi hạch, đi thi mà viết ám tả nhầm thì tai hại bạc vạn; đổi chữ biến nghĩa, e rằng chỉ có việc khóc lộn cười như tâm trạng cô gái lên xe hoa về nhà chồng mà thôi.
Tuất không phải là chó nhưng gợi lên hình tượng ấy. Khuyển, cẩu, cầy đều đồng nghĩa. Chó lớn gọi là Khuyển, chó nhỏ gọi là Cẩu, chó con gọi là Cầy. Sài có tục danh gọi là chó sói, tên chữ là Sài cẩu. Lang có tên Mao cẩu cũng là loại họ hàng với Sài. Đồng dạng với con Lang có con Bái, khác nhau ở chỗ, chân trước con Bái ngắn, chân trước con Lang dài.
Con chó là cậu con sài, sài thấy chó thì quỳ xuống. Biết chỗ nào có mồi thì con bái phải cõng con sài đi. Loài muông cẩu có tôn ty trật tự, đẳng cấp và lại biết lấy lễ đối với nhau theo luật rừng một cách tự nhiên.
Loài chó còn có tên là Địa dương hoặc Canh hiến. Đọc lên nghe thanh thoát, chẳng phảng phất gì là chó má cả mà trái lại còn gợi lên hình ảnh đẹp và trung nghĩa nữa.
Con chó có ba đức lớn: không quên chủ, không lộn đường, không sai việc giữ nhà ban đêm:
Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
Răng rụng, lâu năm nó phải già.
(Huỳnh Mẫn Đạt)
Tục ngữ đúc kết thành kinh nghiệm quý: Lạc đường theo đuôi chó, lạc ngõ theo đuôi trâu. Chó nhất thiết không đi lạc đường, không sai ngõ, không sai hẻm, không sai cổng mà báo đúng số, đúng cửa, đúng nhà, đúng người. Dân gian còn tin rằng sau khi chết còn được chó dắt qua cầu ở âm phủ nên có lời tự nhủ rằng: Đập chó phải ngó đằng sau hoặc chó béo đẹp mặt chủ nhà để làm phước báu cho đời sau.
Có những con chó nổi tiếng với sử sách như Lữ Ngao là con chó Ngao do rợ Tây Lữ đem cống vua Vũ Vương nhà Hạ, con chó Cược của tên trộm dám cả gan cắn vua Nghiêu rất nhân ái. Tống Thước là tên con chó có nghĩa của người Tống. Hàn Lư là tên con chó màu đen, chạy nhanh và dũng cảm của nước Hàn. Theo Tấn Thủ, Lục Cơ có con chó quý tên là Hoàng Nhĩ.
Năm 1858, Đặng Huy Trứ có làm bài thơ bằng chữ Hán với tựa đề "Quân tử bất tố san" nghĩa là quân tử không ăn không ngồi rồi, có đoạn viết:
Tống Thước, Hàn Lư, Lục Hoàng Nhĩ
Bãi vĩ đao đầu thụ chủ tử,
Chung nhật giảo lạp, dạ phệ thủ,
Chích bất đáo môn, giảo thơ tử.
Dịch là:
Tống Thước, Hàn Lư và Lục Hoàng,
Chủ ban một miếng, ngoe nguẩy mừng
Ngày ngày đua săn, đêm sủa, giữ,
Trộm nào dám đến, thỏ đường cùng.
(Vũ Đình Liên và Trần Lê Văn dịch)
Lục Cơ ở kinh lâu không được thư nhà, đùa nói với chó: Ta lâu không có thư nhà, mi có thể giúp ta được không? Chó vẫy đuôi. Lục Cơ bèn viết thư bỏ vào ống tre buộc vào cổ chó. Chó tìm về quê đưa thư rồi lại mang thư đến nhà.
Hoàng Quang (1740 - 1800) viết Hoài Nam khúc, trong đó có câu hay đến nỗi người đời nhắc như lời sấm truyền, đoán biết trước năm Nhâm Tuất, 1802 vua Gia Long thu giang sơn về một mối:
"Chó ngoắt đuôi mừng thánh Chúa."
Cảm kích vì nghĩa tình chung thủy của ẩn sĩ ở đất Thai Dương, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, nhà vua sai sứ đến mời Hoàng Quang ra làm quan thì than ôi ông đã chết rồi.
Con chó tỏ vẻ mừng rỡ bằng biểu hiện vẫy đuôi mừng chủ. Hễ con chó nào không hội đủ ba ân trên thì chắc rằng không phải là chó nữa, hình tượng chó đã tan nát rồi. Đó là một loại "cầy thác", khó sống nổi.
Tốt nhất là tìm cách đưa đường, dẫn mối con chó ấy về khu "mộc tồn" mà nhập cảnh, nhập cuộc cho yên sự đời. Địa chỉ, điện thoại, Fax-Telex để giao dịch theo lời dân gian: "đường đi ở miệng”.
Chó còn là con sinh để tế thần. Thời cổ đã định thành lệ, thành lễ; tế thần cổng dùng con chó. Cầu thần cho mở cửa, đóng cửa đúng giờ, đúng thời; mong rằng điều tốt, điều lành tìm đến; còn điều dữ, không tốt thì đi chỗ khác chơi, đi phắt cho xa xứ ngái sở.
Thời Tấn, Triệu Vương Luân bán quan bán tước. Có tiền là được quan, có sắc bằng. Những viên ngự sử được gọi là ngôn quan hay đài quan vì phải có tài ăn nói, biện thuyết. Quan đài đội mũ có đuôi con điêu do sẵn có tiền bỏ ra mua được phẩm hàm, chức tước rất nhiều. Đa văn cho nên bị trở thành "đa sĩ". Văn là tiền chớ không phải là văn chương chữ nghĩa. Bởi vậy người đời có câu chê trách = "điêu bất túc, cẩu vĩ tục", nghĩa là "đuôi con điêu chưa đủ, thì cứ việc lấy đuôi con chó mà nối".
Từ sự việc ấy mới có điển tích "nối điêu" mà những người họa thơ dùng để tỏ ý nhún nhường. Thúc Sinh vốn là tay sợ vợ, nhưng lỡ mê gái, ăn ở với Thúy Kiều một cách vụng trộm. Có thể xem họ Thúc như là kẻ khơi dậy chuyện tắm hơi "mát-xa" ở chốn lầu xanh, chàng những thích nhìn trộm Thúy Kiều tắm, đôi bên lên trò xướng họa:
Hay hèn lẽ cũng "nối điêu”,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
(câu 1317-1318, Truyện Kiều)
Trộm nghĩ, những người không chịu đọc, có chăng chỉ đọc qua loa, và thích nghe nói nhiều hơn, rồi chữ nào cứ chữ nấy mà dứt nghĩa lý, mới thật là đi theo đường mòn của các ông ngự nối điêu, nhân lúc trà dư tửu hậu chỉ bàn được việc chó chết, chó cán xe, xe cán chó....
Năm Giáp Tuất, 1934, cụ Phan Bội Châu tiếc thương con Vá vì nghĩa dũng đã chiến đấu chống lại bầy dê mà sinh bệnh rồi đau chết, trở về với nước chó (chữ dùng của cụ Phan). Cụ cho mai táng và lại khắc bia đề chữ rằng "nghĩa dũng chi trũng" và lại có chua thêm chữ quốc ngữ "Con Vá" nữa. Cụ lại bỏ công viết bài minh; còn bài lịch sử con "Vá" thì gởi đăng tuần báo Trung Kỳ, ở số 14 ra ngày 15.4.1936. Năm Đinh Sửu, 1937, con Ky lại đi theo đường con Vá, cụ lo chôn cất và lại dựng bia mộ, đề chữ "nhân trí cẩu ky chi trũng". Cả thiên hạ phải sửng sốt, cảm phục trước việc làm khác thường, có dụng ý của Ông Già Bến Ngự.
Cái tâm tư, tâm nhẫn của cụ Phan hoàn toàn trái nghịch với lòng dạ của ông Tôn Thất Thuyết. Ông Thuyết có bệnh mất ngủ, không chịu nổi được tiếng chó sủa và tiếng kêu của loài giun dế. Cho nên cả khu vực chung quanh và gần kề nơi ở và nơi ngủ của ông thì giống chó và loài giun dế không tài nào sống còn được. Cả một vòng đai trắng cho các loài sinh linh bất hạnh ấy. Lính tráng lo giết chó, nấu nước sôi dội xuống đất để trừ khử hai loài giun dế cho ông tướng dễ mơ màng giấc điệp.
Còn tai quái, chọc trời khấy nước, ngang tàng là Ông Ích Khiêm. Hình như sau khi vua Tự Đức băng hà rồi thì ông lại coi trời như ngọn rau má, quyền thần có tầm cỡ phó vương như các quan Phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết ông coi cũng là thường vì trong những ngày đi quân thứ ở Sơn Tây, Tuyên Quang vào những năm 1868, 1869, 1870 thì phẩm tước đều ngang hàng Tán tương, Tán lý; đã cùng nhau vào sinh ra tử, thăng giáng như ông vậy.
Một hôm, ông lập lừa mượn cớ đãi cơm các quan đại thần văn võ, ông mật chọn đầu bếp nấu toàn miếng ngon canh ngọt bằng thịt chó. Loài hổ xem thịt này như là rượu bổ đối với người. Trong tiệc, thừa lúc đang ngon chén, có quan vui miệng hỏi ông cho nấu món thịt gì mà xơi ngon quá là ngon, ông liền đưa tay chỉ và nói lớn như để trấn át rằng: "Trên chó, dưới chó, giữa chó, toàn là chó cả".
Cả thiên hạ, bá quan văn võ chỉ biết ngã ngửa chịu trận theo lối nói đá móc khích khí của ông tướng văn võ kiêm toàn. Mửa mật, nghẹn họng chỉ vì:
Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào,
Khối tình ngậm mãi, biết làm sao?
(Nguyễn Gia Thiều)
Ông Khiêm ơi! Tên ông là Khiêm mà ông chẳng khiêm, chẳng nhượng chút nào. Lúc còn vua Tự Đức ông còn biết sợ. Bài Dụ của nhà vua về việc "Giáng chức và khuyên răn ông Ích Khiêm" đề ngày 5 tháng 4 năm Tự Đức thứ 36, 1883 nhằm để khuyên ông đừng "càn giỡ" mà phải "thuần nhã" hơn.
Một hôm, vua Tự Đức chọn mật văn thần (mật là thân thiết, tín cẩn) là Phan Văn Nhã thảo một bài văn Ngọc Diệp. Khi thảo xong, ông Phan mở một tiệc rượu, mời các đồng liêu tới dự, nhân thể để khoe tài. Không ngờ trong số các quan tới dự có người hay chữ hơn, tỏ ý chê bài văn có mấy chỗ hỏng về mặt văn lý. Rồi đôi bên lời qua tiếng lại, cố tranh cãi phần đúng thuộc về mình. Văn mình vợ người, ai cũng cho mình là đúng, là hay, là tuyệt nên chẳng chút nhường nhau. Tiếc thay! các quan lớn không tự kiềm chế được, đã gây thành chuyện đánh bậy. Quả đúng là đầu khẩu chiến sau biến thành "chiến trường" với vũ khí bằng gậy gộc, chai ve, xô xị chỉ vì chuyện văn chương chữ nghĩa:
Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tại thị (rượu vào lòng qua nhiều như chó cuồng tại chợ). Chuyện vỡ lỡ ra, dội vào tận nội thì khó lòng mà ém nhẹm, dập cháy được nữa. Nhân biết Cao Bá Quát cũng có mặt trong "buổi hội", vua Tự Đức liền gọi họ Cao vào hỏi đầu đuôi xuôi ngược. Cao Bá Quát kính cẩn tâu một mạch bằng bài ký tuyệt bút, đầy sinh động. Chỉ có 23 chữ mà gói gọn tất cả sự việc:
Bất tri ý hà, lưỡng tương đấu khẩu. Bỉ viết cẩu, dĩ chí đấu ẩu. Thần khủng phệ thần, thần hoảng thần tẩu.
Nghĩa là:
Chẳng biết ý sao, hai bên cãi nhau. Bên này bảo chó, bên kia bảo chó. Kia này đều chó, rồi đến đánh nhau. Thần sợ cắn thần, thần sợ thần chạy.
Quả là họ Cao có tài ứng đối, tường thuật tại chỗ và lại lách bút để tránh né tài tình. Văn già văn non là ở những chiêu như rứa đó. Một khi văn chương động tới thiên đình chỉ mới ở mức độ "chợt sơn" hoặc "bỏng trán" ngoài bì phu của tội "yêu thủ yêu ngôn" thì nhà văn trong cuộc đã có kế "tẩu vi thượng sách" trong 36 chước. Chạy làng của giới văn nghệ là thế a?
Riêng tài biện thuyết, mượn miếng trả miếng của sứ thần được chọn đi ra nước ngoài lại khác. Chọn người diệu trí, đa mưu túc kế, sành lễ nghi và nhất là có đủ can đảm.
Theo Đông Châu Liệt Quốc, hồi thứ 69, Án Anh tự là Bình Trọng, làm quan đại phu nước Tề, phụng mệnh Cảnh Công đi sứ nước Sở.
Sở Linh Vương bảo các triều thần rằng:
- Án Anh người gầy thấp, bé nhỏ, cao không đầy năm thước (thước Lỗ Ban) mà chư hầu ai cũng phải trọng là người hiền. Nay trong các nước chỉ có nước Sở ta là cường thịnh hơn cả, ta muốn làm Án Anh xấu hổ để tỏ rõ cái uy của nước Sở ta. Các người nghĩ xem có diệu kế gì không?
Quan Thái tể là Viễn Khải Cương tâu trình mật kế. Vua bèn sai khoét một lỗ thủng ở bên cửa Đông thành độ năm thước, rồi truyền cho quân lính khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa thành lại, bảo cứ chui lỗ khoét mà vào.
Khi Án Anh tới thì cửa đóng. Bèn sai quân gọi. Quân canh thành chỉ vào lỗ khoét bảo:
- Quan tướng quốc chui qua lỗ nọ, cũng đã chán rộng, lựa là phải mở cửa!
Án Anh bèn nói:
- Đó là lỗ chó chui, chớ không phải lỗ người đi. Có sang nước chó, mới vào cửa chó, chớ sang nước người phải đi cửa người.
Quân lính giữ cửa đem lời ấy tâu với Sở Linh Vương. Nhà vua nói:
- Ta muốn làm nhục hắn, ai ngờ hắn lại làm nhục ta!
Rõ ràng là quýt dày có móng tay nhọn. Trí tuệ của quân sư nước Sở chỉ mới đạt hàng quạt mo. Sứ thần nước Tề quả đúng là trạng, phản ứng nhanh chớp hơn điện.
Năm Gia Long nguyên niên tức năm Nhâm Tuất, 1802, nhà vua phái Hộ bộ Thượng thư Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ, Binh bộ Tham tri Ngô Nhân Tĩnh và Hình bộ Tham tri Hoàng Ngọc Uẩn làm giáp và ất phó sứ, đem sắc ấn của Thanh triều phong cho Tây Sơn và đồng thời áp giải bọn giặc biển (người phương Tây gọi là Les chiens de mer) là bọn Mạc Quan Phù sang Quảng Đông trao cho viên tổng đốc tỉnh ấy để tâu Thanh triều xử trí. Một phái bộ khác của nước ta đi sứ tiếp theo để cầu phong do Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định làm chánh sứ, Lại bộ Thiêm sự Lê Chính Lộ làm giáp phó sứ, Đông các học sĩ Nguyễn Gia Cát làm ất phó sứ.
Nhà Thanh chuẩn cho cả hai sứ bộ đến kinh đô một lần. Theo quốc thư của vua Gia Long gởi vua Gia Khánh xin đặt tên nước là Nam Việt. Vua Thanh lấy cớ danh xưng Nam Việt cùng với Đông Việt và Tây Việt (tức Quảng Đông và Quảng Tây) trùng nhau nên không chấp thuận.
Lại thêm nhiều quốc thư gởi tiếp cho Thanh triều hai ba lần và nhất là do tài khéo biện bạch, ứng đối của hai sứ bộ cho nên cuối cùng vua Gia Khánh phải xiêu lòng. Quốc thư có câu đáng giá ngàn vàng vì tự nó nói lên danh dự và quốc thể bề thế của nước ta:
"Nếu không cho đổi tên nước thì không thụ phong".
Vua Thanh sợ mất lòng vua ta, giữ tình giao hảo nên lấy hai chữ VIỆT NAM đặt tên nước, rồi phái Tế Bố Sâm mang các sắc quốc ấn sang phong cho vua Gia Long làm quốc vương Việt Nam. Quốc hiệu VIỆT NAM có từ sự kiện lịch sử trọng đại ấy. Rồi đến năm Minh Mạng thứ 19, 1838 tức năm Mậu Tuất mới đổi tên nước là Đại Nam.
Theo vòng quay thời gian, năm Tuất này cách năm Tuất khác là 12 Tết. Dân lo giữ nước, vật giúp người, nương tựa vào nhau. Con chó giữ nhà mà lại cũng góp phần giúp nước cứu dân. Năm Minh Mạng thứ 17, tức năm Bính Tuất, 1826 có Chỉ của vua ban rằng:
Cho biền binh ở vệ Võng Thành nuôi 100 con chó săn, mỗi tháng chi cấp gạo lương để nuôi là 20 phương, cho mỗi đội trong vệ ấy chia nuôi 10 con, và cho tên binh đinh trong đội chuyên việc chăn nuôi, trừ lệ lương ra mỗi tháng cấp thêm một quan tiền, để chuyên nuôi bầy chó ấy, phòng khi săn bắn.
(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, quyển 176)
Vì không khéo lo giữ nước, Việt Nam phải lần lượt ký các hòa ước với Pháp vào các năm Nhâm Tuất, 1862; Giáp Tuất, 1874. Mất nước dần hồi; đến năm Đồng Khánh nguyên niên, tức năm Bính Tuất, 1886 thực dân Pháp đặt xong nền bảo hộ:
Năm Tuất sao phướng mọc trên Nghê
Tây qua lấy nước, cực con dân ba bốn bề.
Tết Nguyên đán là những ngày lễ tiết thiêng liêng của dân tộc, người Việt ở khắp nơi, trong nước và ngoài nước đều trào dâng ý thức uyên nguyên trở về cội nguồn, về sơn hà xã tắc. Nơi nơi, khắp chốn, ai nấy đều chúc mừng, chúc thọ, thiết tha cầu mong con rồng Việt Nam vươn mạnh vào thời mở cửa.
Ngày xưa, lời chúc của thần dân và bề tôi lên bề trên vẫn dùng những nhóm từ thông thường như biểu hiện sự trân trọng, cung kính như các thành ngữ "khuyển mã xỉ trường", "tình chó ngựa đều ơn":
Giải được lòng khuyển mã là vinh
(Cao Bá Nhạ, Tự tình khúc)
Vài nét chấm phá thô thiển về bức tranh vân cẩu, góp phần đón xuân và vui xuân. Cầu chúc mọi người, mọi nhà, mọi chốn đều được thần cửa, thần cổng rước mời hồng phúc đến. Không phải chỉ một phúc, chỉ hai phúc, chỉ ba phúc mà là NGŨ PHÚC. Đó là lời chúc: một THỌ, hai GIÀU, ba YÊN VUI, bốn HAM VỀ ĐỨC, năm TRỌN ĐỜI KHỎI BỆNH TẬT, KHỎI TAI NẠN. Thiết nghĩ, ấy là cách bảo hiểm con người và tài sản hữu hiệu nhất, tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất ở thế gian. Tin rằng "của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ".
Ngoài “tầm nhìn xa” thì con chó dù trung nghĩa đến đâu cũng bất kham giữ của cho chủ được, chỉ vì lực bất tòng tâm mà thôi.
Huế, ngày 15.12.1993
L.Q.T.
(TCSH60/02-1994)
NSND Trà Giang chia sẻ ký ức và cảm xúc về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ năm 1962.
Tháng 3-4/1975 Phó Cục trưởng Cục Quân nhu Từ Giấy và con trai Từ Đễ cùng hướng tới Sài Gòn bằng con đường khác nhau: người cha đi theo đường mòn Hồ Chí Minh, người con đi bằng máy bay.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Cuối năm 1961, tôi rời Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao về làm biên tập viên chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Chương trình này nằm trong Phòng Văn học do nhà văn Trọng Hứa làm Trưởng phòng.
KIMO
Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.
HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
TÔ NHUẬN VỸ
HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ
NGÔ KHA
LTS: Dưới đây là một ghi chép của cố nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha về những ngày đầu đoàn quân giải phóng về thành Huế dịp 26/3/1975. Rất ngắn gọn, song đoạn ghi chép đã gợi lại cho chúng ta không khí sôi nổi, nô nức những ngày đầu.
Lời nói đầu: Mỗi khi về nhà ở Quỳnh Mai, tôi luôn hình dung thấy Cha tôi đang ngồi đâu đó quanh bàn làm việc của mình. Trong một lần về nhà gần đây, sau khi thắp hương cho Cha, chờ hương tàn bèn mang máy đánh chữ, là vật hết sức gần gũi đã gắn bó với Cha tôi cho tới khi mất, để lau chùi, làm vệ sinh.
Những năm 1973-1976, đến Paris tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho Họa sĩ Lê Bá Đảng.
SƠN TÙNG
Một ngày giáp Tết Canh Dần - tháng 2/1950, gặp dịp đi qua làng Sen, tôi ghé vào thăm nơi đã lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ của Người.
L.T.S: Vương Đình Quang nguyên là thư ký tòa soạn báo "Tiếng Dân" do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ biên, vừa là thư ký riêng của nhà yêu nước Phan Bội Châu, chuyên giúp Phan Bội Châu hoàn chỉnh những văn bản tiếng Việt trong mười lăm năm cuối đời sống và sáng tác tại Huế. Bài này trích từ "Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh" do chính tác giả viết tại quê hương Nam Đàn Nghệ Tĩnh khi tác giả vừa tròn 80 tuổi (1987).
NGUYỄN NGUYÊN
Tháng 6-1966, ở Sài Gòn, giữa cái rừng báo chí mấy chục tờ báo hằng ngày, báo tháng, báo tuần, bỗng mọc thêm một từ bán nguyệt san: Tin Văn.
Cứ vào những ngày cuối năm, khi làm báo tết, trong câu chuyện cà phê sáng, làng báo Sài Gòn hay nhắc đến họa sĩ Choé, tác giả những bức tranh biếm - hí họa từng không thể thiếu trên khắp các mặt báo. Có thể nói, cùng với nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Ớt - Huỳnh Bá Thành, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Văn Hường,… họa sĩ tuổi Mùi - Choé là một trong những “quái kiệt” của Sài Gòn.
(Lược thuật những hoạt động nhân kỷ niệm 5 năm Sông Hương)
(Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương trong lễ kỷ niệm 5 năm)
(SHO). Huế đầu đông. Mưa lâm thâm,dai dẳng. Mưa kéo theo các cơn lạnh se lòng. Cái lạnh không đậm đà như miền Bắc không đột ngột như miền Nam, nó âm thầm âm thầm đủ để làm xao xuyến nổi lòng người xa quê... Ngồi một mình trong phòng trọ, con chợt nhớ, một mùa mưa, xa rồi...
(SHO). Mùa mưa cứ thế đến, những nỗi nhớ trong tôi lại từng cái từng cái ùa về, thổi qua và tôi chợt nhận ra trong lúc ngây ngốc tôi đã bỏ quên nhiều thứ như vây; bỏ quên những người thân yêu trong nỗi nhớ của tôi, ở trong kỉ niệm đã qua và giờ tôi nhớ ra cảm giác hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên họ, để từ đó tôi quý trọng hơn nữa những giây phút bên cạnh những người mà tôi yêu thương.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Sau một thời gian bị bệnh hiểm nghèo, ca sĩ Hà Thanh đã qua đời vào lúc 19 giờ 30 ngày 1 tháng 1 năm 2014 (giờ Boston) tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
ĐẶNG VĂN NGỮ
Hồi ký
Cha tôi lúc còn nhỏ tự học chữ nho có tiếng là giỏi, nhưng đến tuổi đi thi thì thực dân Pháp đã bãi bỏ các kỳ thi chữ nho.
TÔ NHUẬN VỸ
Lớp sinh viên chúng tôi tốt nghiệp Khoa Văn - Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, đúng vào thời điểm Mỹ đánh phá miền Bắc và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi con em miền Nam đang ở miền Bắc hãy trở về chiến đấu cho quê hương.