PHILIP CHARTER
Nhà văn Philip Charter - Ảnh tư liệu từ Amazon
Philip Charter là nhà văn trẻ người Anh từng đạt nhiều giải thưởng. “Người đàn bà đánh cá” (The Fisherwoman) sáng tác năm 2021, là tác phẩm được chọn để đặt tên cho tuyển tập truyện ngắn thứ hai của anh. Nhận xét về tuyển tập này, biên tập viên Neil Clark của Janus Literary, viết: “Phạm vi của những truyện này rất đáng chú ý, bao gồm nhiều chủ đề, nhóm tuổi, thời đại, đưa bạn đi khắp thế giới và thậm chí xa hơn nữa”. “Người đàn bà đánh cá” đã thắng cuộc thi truyện ngắn của Loft Books và được đề cử giải Pushcart. Đỗ Hồng Nhung giới thiệu và dịch từ The Fisherwoman |
Người đàn bà đánh cá
Cô đã thăm vườn sinh quyển đến lần thứ tư. Luôn có điều gì đó thôi thúc cô quay lại đây, dù chỉ có một giờ rảnh rỗi. Cô scan mã trên vòng đeo tay rồi bước vào mái vòm kính.
Vườn sinh quyển ngập tràn cỏ cây hoa lá khỏe khoắn. Những chú ong máy đang bay lượn giữa những khóm hoa rực rỡ. Hôm nay, cô đến xem triển lãm rừng mưa nhiệt đới, nhưng trước tiên, cô qua thăm vườn Nhật Bản đã.
Một bà lão đang ngồi trên băng ghế, nhìn ra hồ cá koi cô yêu thích. Những chú cá màu trắng pha cam cứ lượn vòng vòng như đang trong giấc mơ ngoan, hầu như không để lại gợn sóng nào. Bà luôn ngồi đúng chỗ đó mỗi khi cô đến. Tiếng chuyện trò của du khách được lọc qua những bụi cây ngăn cách hồ và lối đi chính.
Cô tằng hắng: “Con chào dì”.
Bà lão nhìn lên với ánh mắt ân cần, như thể đang trông chờ ai đó. “Có gì không, cô gái?”
“Con thấy dì hay đến đây để ngắm…”.
“Bầy cá? Tuyệt đẹp” - bà nói. “Có phước lắm mới chẳng biết chuyện gì xảy ra xung quanh chúng”. Bà ho vào chiếc khăn tay, và mỉm cười cáo lỗi.
Bà nói đúng. Những con cá kia chỉ tồn tại trong phạm vi giới hạn của hồ cá, giống như đại đa số người dân sống trọn đời ở đúng một nơi, mọi sự dịch chuyển của họ đều được theo dõi và kiểm soát. Cô là một trong những người may mắn được đi đó đi đây.
“Thuốc của ta đó, thấy không?” - bà nói, khoát tay ra dấu. “Ba giờ mỗi ngày để điều trị bệnh phổi xám”.
Ngày nào đó, tới phiên cô sẽ ngồi trên băng ghế kia, với toa thuốc ghi “khí trời” để cải thiện hô hấp. Khi cô xin phép ngồi cùng, bà nhích người rồi vỗ nhẹ vào chỗ trống bên cạnh. Cô tự hỏi liệu bà có nhớ gì về đời sống thời tiền Liên Bang không, và bà có thuộc lực lượng lao động du mục giống như cô không. Bà ấy quen thuộc một cách bí ẩn. Câu chuyện gốc của bà có chút gì giống chuyện của cô không?
Khi cô ra đời, một đoạn mã độc bản được thêm vào chip căn cước của cô. Ai cũng có một cái. Đoạn mã do The Scribe, siêu máy tính sáng tạo câu chuyện dựa trên DNA của từng cá nhân, viết nên. Đoạn mã này là câu chuyện gốc của bạn. Chuyện không ghi âm được mà chỉ có thể kể trực tiếp giữa người với người, chia sẻ khi kết nối đôi bên đủ mạnh. Khi ngồi xuống, cô quyết định chia sẻ câu chuyện gốc của mình với người đàn bà trong khu vườn Nhật Bản. Bà trông như phiên bản lão niên của cô: cũng chiếc mũi to đó, mái tóc dày đó, nhưng quanh bà tỏa ra làn sương tĩnh tại.
“Con kể dì nghe câu chuyện của mình được không?”
Bà nhìn thẳng ra hồ cá koi, mỉm cười: “Tất nhiên rồi”.
![]() |
Minh họa: Ngô Lan Hương |
Biết bao lần cô đã nghĩ đến việc viết câu chuyện gốc của mình lên mảnh giấy xếp và đặt bên hồ cá, nhưng nếu ai đó phát hiện, nó sẽ bị hủy bỏ. Có lần cô tìm thấy một câu chuyện gốcviết bằng mã Morse ngay trong ống dẫn khí cô đang nâng cấp. Thật thú vị khi mỗi ngày giải mã một vài câu. Có lẽ giờ nó bị xóa mất rồi.
Có những người gặp ai cũng kể chuyện, buột miệng thốt ra mà chẳng để tâm kẻ đối diện phản ứng thế nào. Nhưng cô thì hiếm khi kể chuyện của mình. Cô đối diện với người đàn bà và bắt đầu. “Chuyện của con kể về người đàn bà đánh cá, sinh ra hàng trăm năm trước, trên một hòn đảo hoang”.
Người phụ nữ ngồi thẳng lên một chút. Có lẽ bà hồi tưởng lại một thời đất đai còn được biển cả bao bọc. Khi hòn đảo cuối cùng cũng được kết nối bằng những cây cầu đất do hạm đội robot xây nên, Liên Bang đã công bố sự kiện ấy thật rầm rộ.
“Khi người chồng lên đường tìm kiếm những miền đất mới” - cô kể tiếp -“người đàn bà thường bắt cá tại vùng vịnh của đại dương bát ngát, hay những rãnh nước sâu trong rạn san hô xanh lộng lẫy. Người làng gọi hòn đảo là Trang Sức Người Khổng Lồ, tựa như góc nhỏ địa cầu của bà được xâu lại với nhau thành chiếc vòng ngọc lam trên cổ sinh vật to lớn nào đó”.
Người đàn bà ngồi chống tay lên gối, nghiêng đầu gặng hỏi từng câu. Hệ thống tưới tiêu gần đó phun ra một làn sương nhẹ.
“Bà mang lên xuồng một tấm lưới, một bình nước, một chiếc nón để đội khi mặt trời thiêu đốt và một chiếc xô đựng cá” - cô tiếp tục.
Trong thế giới của cô, không tồn tại tài sản cá nhân nào, kể cả một bình nước.
“Mỗi ngày bà đánh cá ở một nơi, tung tấm lưới tròn lên cao và nhìn nó trôi xuống biển. Khi thu lưới, bà ngân nga một giai điệu học từ mẹ, âm lượng đủ để bà hòa mình vào, nhưng không quá lớn khiến lũ cá sợ bỏ chạy. Khi xô cá đã đầy, bà trở về làng”.
Cô chưa từng nếm mùi vị của cá. Tiêu thụ động vật bị đặt ra ngoài vòng pháp luật từ thế kỷ trước. Những con vật hoang dã cuối cùng cũng biến mất, giờ chỉ còn từng đàn côn trùng khổng lồ lang thang trên trái đất. Các loại ngũ cốc hiện đại đã miễn dịch với chúng, không như những loài cây khác. Vùng đất nào không canh tác được thì chuyên dụng trồng cây bụi sản xuất oxy, “dàn trận” đầu độc côn trùng. Liên Bang tồn tại trong cuộc chiến tranh hóa học vĩnh viễn với chính mảnh đất của mình.
“Rồi khi nào thì những người khổng lồ đến?” - người đàn bà hỏi.
Cô ngạc nhiên khi bà ngắt lời. “Dì từng nghe ai kể chuyện này trước đây sao?”
“Ta biết từ một góc nhìn khác” - bà đáp.
Trái tim cô đập tưng bừng. Nếu câu chuyện của họ kết nối với nhau, rất có thể bà là họ hàng máu mủ của cô - dì cháu, hay chị em cô cậu, chú bác gì đó. Cô chưa từng gặp người bà con nào, mặc dù đã thao thức bao đêm thắc mắc về họ.
“Xin lỗi” - bà nói. “Ta giữ chân con lâu quá”.
Có lẽ không đủ thời gian để ghé thăm quần thể sinh vật Amazon, nhưng với cô, truyền tải câu chuyện gốc mạch lạc nhất còn quan trọng hơn nhiều. Cô trấn tĩnh lại và tiếp tục. “Sau nhiều tháng xa nhà, chồng bà trở về và họ sinh một bé gái. Bà đưa con lên xuồng, hy vọng những bài hát bà ngân nga sẽ truyền lại cho con, hòa cùng niềm vui làm người đàn bà đánh cá. Hai mẹ con sống hạnh phúc cho đến ngày những kẻ đi thuyền lớn đổ bộ lên hoang đảo”.
Khi còn nhỏ, cô sống dưới hầm của một trại mồ côi. Ngày lại ngày trôi qua theo đúng lịch trình, không có thời gian để khám phá hay mơ ước. Họ bảo rằng cô thật may mắn khi được học nghề và phục vụ cho nguồn nhân lực du mục của Liên Bang.
Công việc trong ngành lọc không khí đưa cô đi khắp hành tinh. Những năm qua, cô đã thấy biết bao nơi mình chưa từng hình dung, nghe câu chuyện gốc của vô số người - Nữ Hoàng Chiến Binh, Kẻ Trộm Trang Sức Vĩ Đại, và Nhạc Trưởng Điếc. Do tiếp xúc quá nhiều với không khí chưa lọc, phổi cô sẽ hư sớm.
“Đó là những người khổng lồ, bàn tay chai sạn vì chèo thuyền vượt biển” - cô kể.
Như để tham gia vào câu chuyện, một con cá ngoi lên thở, bắn nước tung tóe ra khỏi hồ.
“Chúng to lớn hơn mọi thứ mà người đàn bà đánh cá từng thấy, cơ thể phủ đầy hình xăm đen, tai xỏ khuyên gỗ. Chúng tàn phá ngôi làng của bà. Chỉ trong giây lát, những mái nhà cháy đen, mùi khói làm ô uế không khí muôn đời. Chúng giết chồng và cướp con bà. Trước khi chúng kịp đâm mũi giáo vào bụng bà, bà giơ tay lên và hét lớn: “Đợi đã!” Bọn chúng dừng lại. “Ta sẽ chỉ cho các người chỗ nào có cá”, bà nói. “Hòn đảo này có nguồn cung dồi dào, nhưng chỉ ta biết ở đâu”.
Cô cố gắng hình dung loài cá nhiệt đới trông thế nào. Dẹp lép, nhẵn nhụi như những tia sáng trong vườn thực vật vĩ đại của Singapore, hay lấp lánh ánh bạc, nhanh nhạy như đàn cá thu ở Thủy cung Bắc Âu? Cô từng đến thăm vô số hệ sinh thái công cộng, nhưng mê đắm nhất vẫn là những khu vườn Nhật Bản. Dáng vẻ dịu dàng của nó thu hút cô, cứ như thể nó định sẵn trong DNA của cô vậy. Cô cảm thấy gần gũi người đàn bà đánh cá thêm một chút.
Bà lão cúi đầu, như nhận ra bi kịch sắp đến. Nhưng dù câu chuyện của bà có liên quan đến cô thế nào đi nữa, nó cũng không thể làm gián đoạn phần kết.
“Bà chỉ cho chúng những điểm đánh cá của mình. Chúng mang theo những tấm lưới lớn lấy từ đội thuyền to tướng. Lưới xé toạc san hô khỏi đáy biển và kéo lên đủ loại sinh vật biển lớn nhỏ. Trong khi chúng làm việc, bà ngân nga khúc ca quen thuộc, nhưng chỉ thầm trong đầu. Bọn chúng vui thích trước kích cỡ những con cá lớn và cười cợt lũ cá nhỏ. Chúng ăn tới khi chẳng còn con nào.”
Chiếc vòng trên tay cô rung lên, báo hiệu vé tham quan chỉ còn hiệu lực 5 phút nữa. Cô đẩy nhanh nhịp độ câu chuyện. “Ít lâu sau, tất cả ngư trường đều cạn kiệt, bọn chúng bỏ đi tìm kiếm lãnh thổ mới. Biển cả trống trơn, không loài cây nào mọc nổi trên mặt đất cháy sém. Những dân làng còn lại nương tựa lẫn nhau, sống qua ngày nhờ dừa và rễ cây khô. Đó là hình phạt dành cho người đàn bà đánh cá vì tội tự cứu mình”.
Khi cô ngước lên, bà lão đang khóc. Những giọt nước mắt lớn lăn dài trên má bà, rơi xuống băng ghế.
“Dì đừng khóc” - cô nói. “Đó chỉ là truyện ngụ ngôn thôi mà”.
Bà lấy tay áo quẹt nước mắt. Lúc này, làn sương tĩnh tại quanh bà đã vỡ. Giọng bà run run. “Ta biết, cô gái. Ta biết truyện kết như thế nào”.
Vé sắp hết giờ, và cô không thể ghé triển lãm rừng mưa nhiệt đới cũng chẳng hề chi. Tất cả những gì cô muốn là người phụ nữ ngồi cạnh được chứng kiến cái kết của câu chuyện, và ngộ ra tại sao nó lại ảnh hưởng đến bà như thế. Có phải định mệnh xui khiến họ gặp nhau? Trẻ mồ côi có thể tìm kiếm suốt đời mà không gặp được câu chuyện nào liên quan đến mình.
Với niềm thấu cảm, cô nhắm mắt, sống trong quá khứ và tương lai của người đàn bà đánh cá. Bài hát của bà mỗi lúc một to và rõ hơn. Cô thở bầu không khí của bà, gồng gánh quyết định của bà.
“Đợi đã”, người đàn bà nói. “Trước khi con kết thúc, ta phải cho con xem cái này”. Bà đứng lên, đặt bàn chân phải lên ghế và xắn ống quần. Khắc trên bắp chân bà là một hình xăm nhỏ, màu sắc tương phản với băng ghế kim loại. Đó là hình một phụ nữ đội nón rộng vành, đang chèo xuồng trong làn nước trong xanh. Hầu như không thể thấy cái xô phía sau xuồng.
Chiếc vòng lại rung lên nhưng cô mặc kệ.
Giờ cô đã hiểu điều gì thu hút mình quay lại khu vườn Nhật Bản. Cổ họng cô nghẹn đắng. Cô muốn sống khoảnh khắc này mãi mãi, và khóc cùng người phụ nữ trong câu chuyện gốc của mình.
Trước khi cô kịp kết thúc câu chuyện, bà lão kể nó theo cách của bà. “Khi cố gắng cứu mạng mình, người đàn bà đánh cá đã tạo nên cái chết không tránh khỏi của một thứ quan trọng hơn. Điều đó làm bà cảm thấy tội lỗi”. Bà kéo ống tay áo lên lau mặt. “Một ngày nọ, bà chèo xuồng ra đại dương xa tít, đến khi không còn nhìn thấy đất liền. Bà không mang theo nón, xô hay chai nước”. Cách bà sắp xếp câu từ giống y như cô.
Người đàn bà bắt đầu ngân nga bài hát, nhưng lại trào lên cơn ho. Thân hình bà héo hon như người 80 tuổi, dù chắc hẳn bà trẻ hơn nhiều.
Cô rút ra miếng khăn giấy và dìu bà trở lại chỗ ngồi. “Giờ dì thư giãn đi nào. Nghỉ ngơi thôi”.
Bà đồng ý và cô kết thúc câu chuyện.
“Du khách đến thăm hòn đảo đó vẫn tin rằng nếu áp tai vào gió trên bờ biển, họ có thể nghe thấy tiếng ngân nga yếu ớt bài hát của người đàn bà đánh cá”.
Lần nào kể lại câu chuyện Người Đàn Bà Đánh Cá, cô cũng như để lại một phần mình trong đó. Nó khiến cô kiệt sức, nhưng hun đúc nên khát khao được nghe kể câu chuyện của người đối diện. Đặc biệt là lần này. Nhích lại gần, cô với lấy bàn tay của mẹ ruột. Không còn thời gian để nghe xem thế lực nào đã đưa bà đi, và câu chuyện gốc của bà liên kết với chuyện của cô như thế nào. Không phải hôm nay.
Cô đỡ bà đứng dậy, ôm lấy người phụ nữ cô đã chờ đợi cả đời để gặp. Cả hai đều là một phần của nơi này, cùng với đàn cá koi và những cây anh đào trong khu vườn Nhật Bản. Nhưng bà phải ở đây và cô phải đi. “Con sẽ quay lại sớm”, cô nói. “Dì có thể kể con nghe chuyện của dì vào lần sau”.
P.C
(TCSH423/05-2024)
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).