Người đàn bà đánh cá

10:34 18/06/2024


PHILIP CHARTER

Nhà văn Philip Charter - Ảnh tư liệu từ Amazon

Philip Charter là nhà văn trẻ người Anh từng đạt nhiều giải thưởng. “Người đàn bà đánh cá” (The Fisherwoman) sáng tác năm 2021, là tác phẩm được chọn để đặt tên cho tuyển tập truyện ngắn thứ hai của anh. Nhận xét về tuyển tập này, biên tập viên Neil Clark của Janus Literary, viết: “Phạm vi của những truyện này rất đáng chú ý, bao gồm nhiều chủ đề, nhóm tuổi, thời đại, đưa bạn đi khắp thế giới và thậm chí xa hơn nữa”. “Người đàn bà đánh cá” đã thắng cuộc thi truyện ngắn của Loft Books và được đề cử giải Pushcart.

Đỗ Hồng Nhung giới thiệu và dịch từ The Fisherwoman



Người đàn bà đánh cá

 

Cô đã thăm vườn sinh quyển đến lần thứ tư. Luôn có điều gì đó thôi thúc cô quay lại đây, dù chỉ có một giờ rảnh rỗi. Cô scan mã trên vòng đeo tay rồi bước vào mái vòm kính.

Vườn sinh quyển ngập tràn cỏ cây hoa lá khỏe khoắn. Những chú ong máy đang bay lượn giữa những khóm hoa rực rỡ. Hôm nay, cô đến xem triển lãm rừng mưa nhiệt đới, nhưng trước tiên, cô qua thăm vườn Nhật Bản đã.

Một bà lão đang ngồi trên băng ghế, nhìn ra hồ cá koi cô yêu thích. Những chú cá màu trắng pha cam cứ lượn vòng vòng như đang trong giấc mơ ngoan, hầu như không để lại gợn sóng nào. Bà luôn ngồi đúng chỗ đó mỗi khi cô đến. Tiếng chuyện trò của du khách được lọc qua những bụi cây ngăn cách hồ và lối đi chính.

Cô tằng hắng: “Con chào dì”.

Bà lão nhìn lên với ánh mắt ân cần, như thể đang trông chờ ai đó. “Có gì không, cô gái?”

“Con thấy dì hay đến đây để ngắm…”.

“Bầy cá? Tuyệt đẹp” - bà nói. “Có phước lắm mới chẳng biết chuyện gì xảy ra xung quanh chúng”. Bà ho vào chiếc khăn tay, và mỉm cười cáo lỗi.

Bà nói đúng. Những con cá kia chỉ tồn tại trong phạm vi giới hạn của hồ cá, giống như đại đa số người dân sống trọn đời ở đúng một nơi, mọi sự dịch chuyển của họ đều được theo dõi và kiểm soát. Cô là một trong những người may mắn được đi đó đi đây.

“Thuốc của ta đó, thấy không?” - bà nói, khoát tay ra dấu. “Ba giờ mỗi ngày để điều trị bệnh phổi xám”.

Ngày nào đó, tới phiên cô sẽ ngồi trên băng ghế kia, với toa thuốc ghi “khí trời” để cải thiện hô hấp. Khi cô xin phép ngồi cùng, bà nhích người rồi vỗ nhẹ vào chỗ trống bên cạnh. Cô tự hỏi liệu bà có nhớ gì về đời sống thời tiền Liên Bang không, và bà có thuộc lực lượng lao động du mục giống như cô không. Bà ấy quen thuộc một cách bí ẩn. Câu chuyện gốc của bà có chút gì giống chuyện của cô không?

Khi cô ra đời, một đoạn mã độc bản được thêm vào chip căn cước của cô. Ai cũng có một cái. Đoạn mã do The Scribe, siêu máy tính sáng tạo câu chuyện dựa trên DNA của từng cá nhân, viết nên. Đoạn mã này là câu chuyện gốc của bạn. Chuyện không ghi âm được mà chỉ có thể kể trực tiếp giữa người với người, chia sẻ khi kết nối đôi bên đủ mạnh. Khi ngồi xuống, cô quyết định chia sẻ câu chuyện gốc của mình với người đàn bà trong khu vườn Nhật Bản. Bà trông như phiên bản lão niên của cô: cũng chiếc mũi to đó, mái tóc dày đó, nhưng quanh bà tỏa ra làn sương tĩnh tại.

“Con kể dì nghe câu chuyện của mình được không?”

Bà nhìn thẳng ra hồ cá koi, mỉm cười: “Tất nhiên rồi”.

Minh họa: Ngô Lan Hương


Biết bao lần cô đã nghĩ đến việc viết câu chuyện gốc của mình lên mảnh giấy xếp và đặt bên hồ cá, nhưng nếu ai đó phát hiện, nó sẽ bị hủy bỏ. Có lần cô tìm thấy một câu chuyện gốcviết bằng mã Morse ngay trong ống dẫn khí cô đang nâng cấp. Thật thú vị khi mỗi ngày giải mã một vài câu. Có lẽ giờ nó bị xóa mất rồi.

Có những người gặp ai cũng kể chuyện, buột miệng thốt ra mà chẳng để tâm kẻ đối diện phản ứng thế nào. Nhưng cô thì hiếm khi kể chuyện của mình. Cô đối diện với người đàn bà và bắt đầu. “Chuyện của con kể về người đàn bà đánh cá, sinh ra hàng trăm năm trước, trên một hòn đảo hoang”.

Người phụ nữ ngồi thẳng lên một chút. Có lẽ bà hồi tưởng lại một thời đất đai còn được biển cả bao bọc. Khi hòn đảo cuối cùng cũng được kết nối bằng những cây cầu đất do hạm đội robot xây nên, Liên Bang đã công bố sự kiện ấy thật rầm rộ.

“Khi người chồng lên đường tìm kiếm những miền đất mới” - cô kể tiếp -“người đàn bà thường bắt cá tại vùng vịnh của đại dương bát ngát, hay những rãnh nước sâu trong rạn san hô xanh lộng lẫy. Người làng gọi hòn đảo là Trang Sức Người Khổng Lồ, tựa như góc nhỏ địa cầu của bà được xâu lại với nhau thành chiếc vòng ngọc lam trên cổ sinh vật to lớn nào đó”.

Người đàn bà ngồi chống tay lên gối, nghiêng đầu gặng hỏi từng câu. Hệ thống tưới tiêu gần đó phun ra một làn sương nhẹ.

“Bà mang lên xuồng một tấm lưới, một bình nước, một chiếc nón để đội khi mặt trời thiêu đốt và một chiếc xô đựng cá” - cô tiếp tục.

Trong thế giới của cô, không tồn tại tài sản cá nhân nào, kể cả một bình nước.

“Mỗi ngày bà đánh cá ở một nơi, tung tấm lưới tròn lên cao và nhìn nó trôi xuống biển. Khi thu lưới, bà ngân nga một giai điệu học từ mẹ, âm lượng đủ để bà hòa mình vào, nhưng không quá lớn khiến lũ cá sợ bỏ chạy. Khi xô cá đã đầy, bà trở về làng”.

Cô chưa từng nếm mùi vị của cá. Tiêu thụ động vật bị đặt ra ngoài vòng pháp luật từ thế kỷ trước. Những con vật hoang dã cuối cùng cũng biến mất, giờ chỉ còn từng đàn côn trùng khổng lồ lang thang trên trái đất. Các loại ngũ cốc hiện đại đã miễn dịch với chúng, không như những loài cây khác. Vùng đất nào không canh tác được thì chuyên dụng trồng cây bụi sản xuất oxy, “dàn trận” đầu độc côn trùng. Liên Bang tồn tại trong cuộc chiến tranh hóa học vĩnh viễn với chính mảnh đất của mình.

“Rồi khi nào thì những người khổng lồ đến?” - người đàn bà hỏi.

Cô ngạc nhiên khi bà ngắt lời. “Dì từng nghe ai kể chuyện này trước đây sao?”

“Ta biết từ một góc nhìn khác” - bà đáp.

Trái tim cô đập tưng bừng. Nếu câu chuyện của họ kết nối với nhau, rất có thể bà là họ hàng máu mủ của cô - dì cháu, hay chị em cô cậu, chú bác gì đó. Cô chưa từng gặp người bà con nào, mặc dù đã thao thức bao đêm thắc mắc về họ.

“Xin lỗi” - bà nói. “Ta giữ chân con lâu quá”.

Có lẽ không đủ thời gian để ghé thăm quần thể sinh vật Amazon, nhưng với cô, truyền tải câu chuyện gốc mạch lạc nhất còn quan trọng hơn nhiều. Cô trấn tĩnh lại và tiếp tục. “Sau nhiều tháng xa nhà, chồng bà trở về và họ sinh một bé gái. Bà đưa con lên xuồng, hy vọng những bài hát bà ngân nga sẽ truyền lại cho con, hòa cùng niềm vui làm người đàn bà đánh cá. Hai mẹ con sống hạnh phúc cho đến ngày những kẻ đi thuyền lớn đổ bộ lên hoang đảo”.

Khi còn nhỏ, cô sống dưới hầm của một trại mồ côi. Ngày lại ngày trôi qua theo đúng lịch trình, không có thời gian để khám phá hay mơ ước. Họ bảo rằng cô thật may mắn khi được học nghề và phục vụ cho nguồn nhân lực du mục của Liên Bang.

Công việc trong ngành lọc không khí đưa cô đi khắp hành tinh. Những năm qua, cô đã thấy biết bao nơi mình chưa từng hình dung, nghe câu chuyện gốc của vô số người - Nữ Hoàng Chiến Binh, Kẻ Trộm Trang Sức Vĩ Đại, và Nhạc Trưởng Điếc. Do tiếp xúc quá nhiều với không khí chưa lọc, phổi cô sẽ hư sớm.

“Đó là những người khổng lồ, bàn tay chai sạn vì chèo thuyền vượt biển” - cô kể.

Như để tham gia vào câu chuyện, một con cá ngoi lên thở, bắn nước tung tóe ra khỏi hồ.

“Chúng to lớn hơn mọi thứ mà người đàn bà đánh cá từng thấy, cơ thể phủ đầy hình xăm đen, tai xỏ khuyên gỗ. Chúng tàn phá ngôi làng của bà. Chỉ trong giây lát, những mái nhà cháy đen, mùi khói làm ô uế không khí muôn đời. Chúng giết chồng và cướp con bà. Trước khi chúng kịp đâm mũi giáo vào bụng bà, bà giơ tay lên và hét lớn: “Đợi đã!” Bọn chúng dừng lại. “Ta sẽ chỉ cho các người chỗ nào có cá”, bà nói. “Hòn đảo này có nguồn cung dồi dào, nhưng chỉ ta biết ở đâu”.

Cô cố gắng hình dung loài cá nhiệt đới trông thế nào. Dẹp lép, nhẵn nhụi như những tia sáng trong vườn thực vật vĩ đại của Singapore, hay lấp lánh ánh bạc, nhanh nhạy như đàn cá thu ở Thủy cung Bắc Âu? Cô từng đến thăm vô số hệ sinh thái công cộng, nhưng mê đắm nhất vẫn là những khu vườn Nhật Bản. Dáng vẻ dịu dàng của nó thu hút cô, cứ như thể nó định sẵn trong DNA của cô vậy. Cô cảm thấy gần gũi người đàn bà đánh cá thêm một chút.

Bà lão cúi đầu, như nhận ra bi kịch sắp đến. Nhưng dù câu chuyện của bà có liên quan đến cô thế nào đi nữa, nó cũng không thể làm gián đoạn phần kết.

“Bà chỉ cho chúng những điểm đánh cá của mình. Chúng mang theo những tấm lưới lớn lấy từ đội thuyền to tướng. Lưới xé toạc san hô khỏi đáy biển và kéo lên đủ loại sinh vật biển lớn nhỏ. Trong khi chúng làm việc, bà ngân nga khúc ca quen thuộc, nhưng chỉ thầm trong đầu. Bọn chúng vui thích trước kích cỡ những con cá lớn và cười cợt lũ cá nhỏ. Chúng ăn tới khi chẳng còn con nào.”

Chiếc vòng trên tay cô rung lên, báo hiệu vé tham quan chỉ còn hiệu lực 5 phút nữa. Cô đẩy nhanh nhịp độ câu chuyện. “Ít lâu sau, tất cả ngư trường đều cạn kiệt, bọn chúng bỏ đi tìm kiếm lãnh thổ mới. Biển cả trống trơn, không loài cây nào mọc nổi trên mặt đất cháy sém. Những dân làng còn lại nương tựa lẫn nhau, sống qua ngày nhờ dừa và rễ cây khô. Đó là hình phạt dành cho người đàn bà đánh cá vì tội tự cứu mình”.

Khi cô ngước lên, bà lão đang khóc. Những giọt nước mắt lớn lăn dài trên má bà, rơi xuống băng ghế.

“Dì đừng khóc” - cô nói. “Đó chỉ là truyện ngụ ngôn thôi mà”.

Bà lấy tay áo quẹt nước mắt. Lúc này, làn sương tĩnh tại quanh bà đã vỡ. Giọng bà run run. “Ta biết, cô gái. Ta biết truyện kết như thế nào”.

Vé sắp hết giờ, và cô không thể ghé triển lãm rừng mưa nhiệt đới cũng chẳng hề chi. Tất cả những gì cô muốn là người phụ nữ ngồi cạnh được chứng kiến cái kết của câu chuyện, và ngộ ra tại sao nó lại ảnh hưởng đến bà như thế. Có phải định mệnh xui khiến họ gặp nhau? Trẻ mồ côi có thể tìm kiếm suốt đời mà không gặp được câu chuyện nào liên quan đến mình.

Với niềm thấu cảm, cô nhắm mắt, sống trong quá khứ và tương lai của người đàn bà đánh cá. Bài hát của bà mỗi lúc một to và rõ hơn. Cô thở bầu không khí của bà, gồng gánh quyết định của bà.

“Đợi đã”, người đàn bà nói. “Trước khi con kết thúc, ta phải cho con xem cái này”. Bà đứng lên, đặt bàn chân phải lên ghế và xắn ống quần. Khắc trên bắp chân bà là một hình xăm nhỏ, màu sắc tương phản với băng ghế kim loại. Đó là hình một phụ nữ đội nón rộng vành, đang chèo xuồng trong làn nước trong xanh. Hầu như không thể thấy cái xô phía sau xuồng.

Chiếc vòng lại rung lên nhưng cô mặc kệ.

Giờ cô đã hiểu điều gì thu hút mình quay lại khu vườn Nhật Bản. Cổ họng cô nghẹn đắng. Cô muốn sống khoảnh khắc này mãi mãi, và khóc cùng người phụ nữ trong câu chuyện gốc của mình.

Trước khi cô kịp kết thúc câu chuyện, bà lão kể nó theo cách của bà. “Khi cố gắng cứu mạng mình, người đàn bà đánh cá đã tạo nên cái chết không tránh khỏi của một thứ quan trọng hơn. Điều đó làm bà cảm thấy tội lỗi”. Bà kéo ống tay áo lên lau mặt. “Một ngày nọ, bà chèo xuồng ra đại dương xa tít, đến khi không còn nhìn thấy đất liền. Bà không mang theo nón, xô hay chai nước”. Cách bà sắp xếp câu từ giống y như cô.

Người đàn bà bắt đầu ngân nga bài hát, nhưng lại trào lên cơn ho. Thân hình bà héo hon như người 80 tuổi, dù chắc hẳn bà trẻ hơn nhiều.

Cô rút ra miếng khăn giấy và dìu bà trở lại chỗ ngồi. “Giờ dì thư giãn đi nào. Nghỉ ngơi thôi”.

Bà đồng ý và cô kết thúc câu chuyện.

“Du khách đến thăm hòn đảo đó vẫn tin rằng nếu áp tai vào gió trên bờ biển, họ có thể nghe thấy tiếng ngân nga yếu ớt bài hát của người đàn bà đánh cá”.

Lần nào kể lại câu chuyện Người Đàn Bà Đánh Cá, cô cũng như để lại một phần mình trong đó. Nó khiến cô kiệt sức, nhưng hun đúc nên khát khao được nghe kể câu chuyện của người đối diện. Đặc biệt là lần này. Nhích lại gần, cô với lấy bàn tay của mẹ ruột. Không còn thời gian để nghe xem thế lực nào đã đưa bà đi, và câu chuyện gốc của bà liên kết với chuyện của cô như thế nào. Không phải hôm nay.

Cô đỡ bà đứng dậy, ôm lấy người phụ nữ cô đã chờ đợi cả đời để gặp. Cả hai đều là một phần của nơi này, cùng với đàn cá koi và những cây anh đào trong khu vườn Nhật Bản. Nhưng bà phải ở đây và cô phải đi. “Con sẽ quay lại sớm”, cô nói. “Dì có thể kể con nghe chuyện của dì vào lần sau”.

P.C
(TCSH423/05-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.