NGUYỄN THÁNH NGÃ
Năm dòng kẻ đầy lòng âm vực
Đêm là vùng ánh sáng lấp lánh những nốt nhạc
Ta đã hát cho đêm song song
Năm dòng kẻ đầy lòng âm vực...
Và hồn ta bay trên từng phím ngực trần
Nghe thánh thót nỗi buồn độc thoại
Nốt đen ơi!
Mi giáng xuống cung trầm
Cho run rẩy
Cho bàng hoàng siêu thực
Đàn ôm đêm và quỳ dâng lên đêm
Đóa thượng uyển chín vàng
Tiếng chim hót trên Tử Cấm thành canh mi thứ
Đường phượng bay Đồng Khánh em đi...
Biển nhớ sóng
Nhớ vai em gầy guộc
Đã vì đêm mà khỏa thân đêm
Ta - gã Trịnh khách ngông nghênh
vào thương vùng ký tự
Chảy trên thân vĩ cầm dòng thẩm âm
Vô lượng kiếp băng qua trời Thuận Hóa
Cắt dọc nỗi người để xác tín đê mê
Ôi đêm mê
Đêm “live concert” nguyệt lầu
Hoa đẫm nhạc và người tình đẫm nhạc
Gió đa thê chưa uống hết đêm nâu
Chưa kịp thổi ngọn đèn mờ hồi tưởng
Chưa ướt mi dưới cánh vạc mưa hồng
Chưa Trường Tiền chưa cưới được tên sông...
Huế hỏi ta
Ai dạm ngõ Hương giang?
Ta lên thuyền
Ở rể đêm khuya...
Bạn thấy gì từ khoảng trống
Từ khoảng trống để nhìn khoảng trống
Bạn thấy gì từ khoảng trống bên kia?
Bạn chẳng thấy gì
Thì làm gì có khoảng trống
Cả trống lòng và trống vắng không gian
Nếu bạn thấy
Đó là khoảng trống
Thì bên kia hay bên này
Khoảng trống như nhau...
Chẳng lấy gì đo hai khoảng trống như nhau
Lấy hữu hạn đo vô hạn ư?
Hữu hạn không còn mà vô hạn cũng không...
Khoảng trống mênh mông
Khoảng trống bao dung
Tôi hay bạn những đứa con vô cực
Đang tìm về khoảng trống để tan ra...
(TCSH426/08-2024)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.