Về một nơi không thể gọi tên

17:04 16/03/2009
ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

Quê tôi là một vùng đất nghèo chiêm trũng ở Quảng Bình, tuổi thơ theo cha mẹ khăn gói vào Huế từ ngày giải phóng, để từ đó biền biệt một nỗi quê như con nước không thể quay về. Lớn lên lại gửi cả một thời hoa mộng ở xứ Đông Hà đầy gió Lào cát trắng. Sáu năm ở Đông Hà không dài nhưng đủ khắc vào tôi nỗi ám ảnh về điều gọi là “thân phận”, và bắt đầu đa mang theo nghiệp văn chương.
Ôm những nỗi niềm không tên đó, tôi một mình quày quả quay lại Huế, nơi tôi đã khóc rất nhiều khi cô bé con bị cha mẹ kéo lên xe trở về Đông Hà xây dựng quê hương  theo lời hiệu triệu của Tổ quốc. Để bây giờ, khi ngồi gõ những dòng này, vẳng bên tai tôi, những hồi chuông nhà thờ Phủ Cam đang ngân nga đổ giọng, như tiếng gọi cứu rỗi những con chiên ngoan của Chúa quay về. Lại bâng khuâng về một điều sâu thẳm, rằng nơi nào là tiếng gọi quê hương? Khi mà trong tôi, quê hương là nơi tôi sinh ra, là nơi tôi lớn lên, cũng là nơi ngày ngày tôi đang tha thiết sống?
   
Ngày trước, mỗi lần đi đâu, khái niệm quê hương của tôi trong mắt bạn bè cả một dải miền Trung này đều chỉ được gọi tên là “Huế”, không phân biệt nổi đâu Quảng Bình, Quảng Trị. Nên mặc nhiên, tôi cũng thành “người Huế”, nghiễm nhiên được có những đặc tính của một cô gái Huế. Trong những trang viết đầu đời của mình, tôi mượn Huế làm quê hương bởi trong trí tưởng ngây ngô, tôi cứ nghĩ rằng, nàng thơ thì phảiyểu điệu thục nữ”, hơn ai hết, Huế lại thục nữ vô cùng. Nhiều người đã nhầm tôi là người Huế cũng từ sự ngây ngô ấy.
Bốn năm đèn sách ở xứ kinh thành, không hiểu trời xui đất khiến thế nào tôi lại trở nên thân quen với vùng đất này đến vậy. Bạn bè tôi  mượn nơi đây làm nơi trú ngụ cho mỗi chuyến đi về. Tôi trở thành “trạm” đón tiếp, lâu dần chết tên, trở thành một địa danh có thực tồn tại giữa lòng cố đô. Đôi người lại ngạc nhiên, sao em lại là Đông Hà chứ không phải là ai khác? Chỉ một người biết tại sao tôi lại là Đông Hà thì giờ đây biền biệt, xa tít mù khơi không một lời động vọng. Tôi chỉ ở Đông Hà có sáu năm, còn ở đây, hai mươi năm có lẻ”.

Giờ tôi đã là cô giáo, ở một ngôi trường cổ kính, đôi lúc tuổi của cây còn nhiều hơn tuổi của bao lớp học trò cộng lại, vậy mà đi giữa thênh thang thấy mình già cỗi còn hơn cây. Nhớ câu thơ ngày xưa “Thầy vẫn thế ngày ngày đến lớp/ đường lên lầu trăm bậc không hơn/ khi tới lên cao ra về xuống thấp/ đời vui theo mỗi bước thăng trầm”. Tôi giờ cũng vậy, mỗi bước cầu thang như một cuộc leo dốc, triền miên, vô tận, chỉ sợ mình thành Sysyphe ôm tảng đá leo dốc, ôm mãi đến tận cùng của niềm tuyệt vọng, biết đâu một đóa hồng đang hồi hộp đợi tình nhân? Sợ mình bị bỏ quên, cũng như đã từng quên”.

Khi còn là một bé con, tôi sớm nhận ra sự khác biệt của mình với lũ bạn bè láu táu. Như con nước sớm tách dòng, một mình lặng lẽ trôi xuôi, mà cuộc ra đi sớm này đâu dễ dàng đến đích, cứ đi mãi nào tìm được lối ra. Để rồi cũng như bao tâm hồn nhạy cảm khác, tôi tập làm thơ, bắt chước làm thơ, cứ như phải làm thơ, không ý thức được đây là một cuộc hành trình đầy nỗi đau của bao phận người gom góp lại. May mắn (hay không may mắn?), đó là những câu thơ buồn của bao nỗi lòng thiên hạ, nên được sự đồng điệu của những tâm hồn thơ, đó cũng chính là sự dìu dắt đầu đời dành cho một bé con tập làm người lớn. Nhà thơ Hải Bằng có câu thơ dễ chết: “không buồn thì không có thơ hay”, làm thơ không ai muốn thơ mình dở, nên buồn như tiền kiếp, từ thuở khai thiên lập địa đã biết buồn, cũng chính từ những câu thơ buồn rứt ruột đó, thiên hạ lại có dịp dòm dỏ, ngó nghiêng. Nên không những chỉ buồn như thân phận, mà còn đau, bởi tiếng thị phi đời.

Sự khởi đầu của tôi là những bài thơ, vậy nhưng “duyên đầu” của tôi với Sông Hương lại là một truyện ngắn. Một truyện ngắn rất bình thường, đầu tay, nhưng cũng gây ra sự chú ý cho bạn bè, bởi theo họ, nó mang màu sắc của  “chủ nghĩa hiện sinh”, khi mà xung quanh, bạn bè đang viết những điều thơ và mộng, thì tôi đã sớm buồn (trước tuổi) những điều (dự cảm) có thật về cuộc sống. Chẳng biết lý giải thế nào. Chỉ biết rằng có một thời, ở Huế, cây bằng lăng nào nở trước nhất, cành phượng nào màu “thương” nhất, gốc sầu đông nào tím đến nghẹt thở, tôi như là người biết trước tiên trong mỗi độ chuyển mùa. Nhưng sự nhạy cảm không dừng ở đó. Nếu dừng ở đó, tôi đã trở thành người lãng mạn với một trời hoa mộng, và yên ổn với những bâng khuâng nhẹ nhàng cần thiết cho một tâm hồn nữ nhi. Cái nhạy cảm trong tâm hồn tôi đã trượt vào vùng nghiệt ngã. Ở đó, tôi thấy những nỗi buồn cuộc sống cứ hiển hiện theo về, để rồi  đêm đêm chà xát cả một vùng tâm linh. Và nhắc nhủ rằng tôi phải viết. Nhiều lúc, tôi muốn tất cả hãy dừng lại, rằng trò chơi đã đến hồi kết thúc, nhưng đây là một trò chơi đã được cài đặt theo một chế độ mã hóa, mà tôi, kẻ đãng trí, lại trót quên chìa khóa mã của riêng mình, nên biết rằng, không bao giờ mình thoát khỏi trò chơi ngày bé lỡ mang mình nhập cuộc.

Bây giờ, hình như tôi là người Huế, nhưng Huế theo, không phải Huế dòng. Ngày ngày vẫn đi về trên những con đường thơ và nhạc mà ai xa Huế cũng phải xốn xang. Sống trong những màu sương bảng lảng, trong sự mơ màng huyền hoặc khói sương. Và dĩ nhiên, vẫn đảm trách phần việc của người ở lại, là đón đưa những chuyến tàu phương xa vào bến. Thi thoảng, lại làm kẻ vỗ về người ra đi bằng cách yêu giùm thiên hạ những điều gọi là “Tính cách Huế”. Lâu riết, thấy Huế thấm vào mình lúc nào không hay.

Chưa đủ ba mươi tuổi đời, mà hơn hai mươi năm ở Huế. Hai mươi năm sau, hai mươi năm sau nữa, tôi có trở thành một người Huế thực thụ không? Điều đó tôi không biết. Nhưng có một điều chắc chắn rằng , nơi tôi ngày ngày  tha thiết sống, vẫn là một thành phố đầy hoa trái xanh tươi, có tình yêu, có bạn bè, có tất cả những điều bình thường giản dị, cả những nỗi đau giúp mình lớn dậy thành người. Thế thôi.
            Huế, 1/6/2005
                   Đ.H
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)

  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).