Về hai bài thơ ngự chế của vua Minh Mạng & vua Thiệu Trị

09:00 06/05/2009
...Dưới thời Nguyễn, chủ yếu là thời Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), vườn Thiệu Phương là nơi nhà vua thường đến dạo chơi thưởng cảnh, vịnh thơ. Vua Thiệu Trị đã xếp vườn là thắng cảnh thứ 2 của đất Thần Kinh và viết bài thơ Vĩnh Thiệu Phương văn nổi tiếng. Bài thơ này cùng cảnh vườn đã được ghi lại trong một bức tranh gương tuyệt đẹp hiện treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế...

Vườn Thiệu Phương


PHAN THANH HẢI

Đó là những bài thơ vịnh về vườn Thiệu Phương, một trong những Ngự uyển nổi tiếng nhất của triều Nguyễn.
Vườn Thiệu Phương là một trong 4 Ngự uyển nằm ngay trong Hoàng thành thời Nguyễn, gồm Thiệu Phương Viên, Ngự Viên, Cơ Hạ Viên, Doanh Châu. Vườn được xây dựng từ năm 1828, thời Minh Mạng, ở phía đông, bên trong cửa Hưng Khánh, thuộc Tử Cấm Thành. Phía nam vườn là khu Duyệt Thị Đường; phía bắc-qua hồ Ngọc Dịch là Ngự Viên; phía tây là Thanh Hạ Thư Lâu (sau là Thái Bình Lâu) và phía đông là bờ tường phía đông của Tử Cấm thành. Quanh vườn có tường gạch bao bọc, cửa chính mở về phía nam; tổng diện tích khu vườn chừng 6.000m2. Vườn nổi tiếng với kiểu cấu trúc “vạn tự hồi lang” tức có hồi lang hình chữ VẠN nằm ở trung tâm chạy ra 4 phía.

Dưới thời Nguyễn, chủ yếu là thời Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), vườn Thiệu Phương là nơi nhà vua thường đến dạo chơi thưởng cảnh, vịnh thơ. Vua Thiệu Trị đã xếp vườn là thắng cảnh thứ 2 của đất Thần Kinh và viết bài thơ Vĩnh Thiệu Phương văn nổi tiếng. Bài thơ này cùng cảnh vườn đã được ghi lại trong một bức tranh gương tuyệt đẹp hiện treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế. Tuy nhiên, ngoài bài thơ trên còn có không ít thơ văn Ngự chế của vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị đề vịnh về khu vườn xinh đẹp này (1). Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu 2 bài thơ Ngự chế của hai vị vua trên.

1-BÀI THƠ NGỰ CHẾ CỦA VUA MINH MẠNG(2):           

THỪA HẠ TUYÊN CHÚNG TỬ QUẦN THẦN NHẬP THIỆU PHƯƠNG VIÊN
TRÍCH LỆ CHI CHƯỚC TRÀ DĨ TỨ KỶ SỰ

Thủ hạ thanh hòa khí sắc tân,
Phương viên du thưởng tập gia tân.
Quả lưu ngọc dịch thân sơ cộng,
Trà dật kim tương đại tiểu quân.
Ân hiệp gia đình đôn phụ tử,
Tình liên thượng hạ trọng quân thần.
Nhất trương nhất thỉ tuân Văn Võ,
Cơ hạ thì nghi giả tiếu tần.

- Dịch nghĩa:
Ghi lại việc nhân rảnh rỗi gọi các con và quần thần vào vườn Thiệu Phương hái vải rót trà để ban thưởng;
Vào đầu mùa hè, khí trời mát mẻ, cảnh sắc tươi mới,
Tụ tập nhau đến thưởng ngoạn ở vườn Thiệu Phương.
Quả ngon đọng mật ngọt người thân kẻ sơ cùng nhau hưởng,
Trà thơm óng ánh trên dưới cùng thưởng thức.
Ân lớn khiến cha con trong gia đình hòa hợp,
Tình nghĩa khiến vua tôi gắn kết với nhau.
Khi bận rộn, khi thong thả đều tuân theo Văn Vũ,
Thì hãy tạm bỏ sự bận bịu để cùng nhau vui vẻ.

- Dịch thơ:
            - Bản dịch 1:
Đầu hạ khí mát cảnh sắc nồng,
Tụ hội Thiệu Phương lắm khách cùng.
Quả ngon đọng mật thân sơ hưởng,
Trà ngát tràn li lớn nhỏ cùng.
Gia đình phụ tử tình hòa hợp,
Trên dưới vua tôi nghĩa liên đồng.
Tuân theo Văn Vũ lúc căng thả,
Tạm bỏ buồn vui rảnh rỗi chung.
                                    (Vĩnh Cao dịch)
            - Bản dịch 2:                 
Vào hạ cảnh sắc mới,
Tụ hội về Thiệu Phương.
Trái ngọt chung chia xẻ,
Trà thơm rót nhau cùng.
Phụ tử tình hòa hợp,
Vua tôi nghĩa liên đồng.
Cương nhu theo Văn Vũ,
Rảnh rỗi cùng vui chung.
                        (Phan Thanh Hải dịch)

2- BÀI THƠ NGỰ CHẾ CỦA VUA THIỆU TRỊ (3):

PHƯƠNG VIÊN XUÂN SẮC

Vũ trụ huyên hòa ái diễm dương
Thượng lâm vô hạn hảo phong quang.
Doanh đình đào lí thiên chân thú,
Mãn giá thi thư cổ trật hương.
Hoa chức ngô lăng khi cẩm tú,
Liễu thư nhân tự mộ văn chương.
Khả tri vật thái giai sinh ý,
Tiên trạch triêm nhu vĩnh Thiệu Phương.

- Dịch nghĩa:
Vũ trụ giao hoà dưới ánh dương diễm lệ,
Cảnh sắc vườn Thiệu Phương vô cùng đẹp đẽ.
Trước sân hoa đào hoa lý gợi niềm hứng thú,
(Trong nhà) các giá sách thấm đậm mùi hương.
Hoa dệt gấm như lụa Ngô, coi khinh cả cẩm tú,
Liễu như dáng người mến mộ văn chương.
Mới hay muôn vật đều có ý,
Ân trạch tiền nhân đã thấm nhuần ở vườn Thiệu Phương

- Dịch thơ:
           
- Bản dịch 1:     
Vũ trụ giao hòa dưới ánh dương
Ngự viên cảnh sắc đẹp vô nhường
Mãn  sân đào lý càng thêm hứng
Đầy giá thi thư thấm đậm hương
Hoa tựa  lụa Ngô hơn cẩm tú 
Liễu như nhân dạng mến văn chương.
Mới hay sức sống tràn muôn vật
Ân trạch tiền nhân mãi Thiệu Phương
                                    (Vĩnh Cao dịch)

            - Bản dịch 2:     
Vũ trụ giao hòa sáng
Ngự Viên cảnh phong quang.
Đào lí tràn sân hứng
Sách vở đậm nhà hương
Hoa khoe dệt gấm lụa.
Liễu cũng mộ văn chương
Muôn vật đều hữu ý
Nhờ ơn thấm Thiệu Phương.
                        (Phan Thanh Hải dịch).

                                Huế, trước thềm xuân Quý Mùi
                                    P.T.H
(169/03-03)

---------------------
(1). Hiện nay chúng tôi đã sưu tầm được trên 30 bài thơ Ngự chế của vua Minh Mạng, Thiệu Trị về vườn Thiệu Phương. Hi vọng trong thời gian tới chúng tôi sẽ giới thiệu toàn bộ những bài thơ này.
(2). Bài thơ này nằm trong Ngự chế thi của vua Minh Mạng
(3). Bài thơ này nằm trong tập Cung viên thập cảnh thuộc bộ Ngự đề đồ hội thi tập của vua Thiệu Trị có in kèm tranh mộc bản. Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan đã từng giới thiệu bức tranh này trên Nghiên cứu Huế -số Một.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • ...sông vẫn xanh màu xanh thuở ấykhác là bây giờ bên sông nhà chọc trời soi bóngô tô đan kín đại lộ lấp loáng nắng trưahình như gió xưa đang háthoa bằng lăng tím lối qua cầu...

  • LƯU LYTên thật: Trần Thị Vân Dung, sinh ngày 28.8.1978 tại Thanh Chương, Nghệ An.Thơ Lưu Ly là sự giãi bày nỗi niềm của một tâm hồn đa cảm mà đơn phương... Sự chân thành mộc mạc của tác giả sẽ mang lại cho người đọc chút “hương đồng gió nội” thật hiếm hoi trong dòng thơ hiện đại.

  • ...Có nơi nào như đất nước tôitiếng trống tràng thành cũng lung lay bóng nguyệtthiếu phụ tiễn chồng ra trậnđêm trở về nằm gối nửa vầng trăng...

  • Trà Mi vốn là bí danh có từ thời hoạt động nội thành của Nguyễn Xuân Hoa được anh “nối mạng” vào “thương hiệu” thơ khi cái đẹp bừng nở trong tuệ giác.Dù không lấy thơ làm cứu cánh nhưng nó vẫn là một hằng số tâm linh đối với bất cứ ai trong mỗi một chúng ta. Sự tung hứng giữa cảm xúc và trí tuệ, sự cộng hưởng giữa truyền thống và hiện đại, sự bức xạ giữa ý tưởng và ngôn ngữ được coi như một nguyên tắc đồng đẳng trong thi pháp thơ Nguyễn Xuân Hoa.Nguyễn Xuân Hoa sinh năm 1947 tại Quảng Điền, TTHuế. Hiện là tỉnh uỷ viên, giám đốc Sở Văn hoá Thông tin TTHuế.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ mới của anh.

  • ...Em đã lấy những gìmà Chúa không cần nữaNgười đã ban tặng emMột tình yêu đau khổ...

  • Cách đây 700 năm, vào năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa, bờ cõi Đại Việt được mở rộng. Hai châu Ô, Lý được vua Chế Mân cắt để làm sính lễ dâng vua Đại Việt. Sau đó, hai châu này được đổi thành châu Thuận và châu Hóa. Thuận Hóa được hình thành từ cơ sở đó.Những bài thơ chữ Hán viết về vùng đất này sớm nhất có thể kể đến như Hóa Châu tác (Làm ở Hóa Châu) vào khoảng năm 1354 của Trương Hán Siêu (?-1354); Hóa Thành thần chung (Chuông sớm ở Hóa Thành) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428); Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ chân ở cửa biển Tư Dung) của Lê Tư Thành (vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497)... Nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006) TCSH trân trọng giới thiệu cùng độc giả ba bài thơ này.HẢI TRUNG giới thiệu

  • Đá Hạ Long đa tình hóm hỉnhNên mái cong đuôi trống xoè lôngTrời và nước hồng hoang kết dínhSóng nôn nao như tiếng vợ gọi chồng...

  • ...đêm bình yên linh hồn nương náusao ta một mình thao thứcsao ta một mình lay gọilối nào tới ban mai?...

  • ...khoảng vườn xanh xưatrồng toàn cây cẩm túnở một bông thôi cũng đủ nhớ thương người...

  • ...từng hàng cỏ mọc bon chencôn trùng nương náu cũng quen lâu rồi...

  • LTS: Nguyễn Xuân Hoàng viết nhiều, viết đủ các thể loại nhưng tác phẩm đã công bố phần lớn là truyện ngắn, bút ký, tản văn, tiểu luận v.v... còn thơ thì ít khi xuất hiện. Song, có lẽ thơ mới là “ngọc châu” trong văn nghiệp của anh. Những bài thơ gần đây được Hoàng viết ra như một sự dự phóng điềm gở của định mệnh.Khắc khoải yêu thương, khắc khoải đợi chờ là tâm trạng của Hoàng được “mã hoá” trong chùm thơ mà Sông Hương vừa tìm thấy trong di cảo của anh.

  • ...Xin hãy để ta mơ về Hợp NhấtLòng bản thể thẳm sâu hòa điệu giữa lòng ta...

  • LÊ HUỲNH LÂMSinh năm 1967, tại Phú Vang - Thừa Thiên Huế; Kỹ sư tin học (ĐH Bách Khoa Hà Nội). Tác phẩm đã in: Sông hoa (tùy bút)....ấy là một khuôn mặt trầm tư? U uất? Khuôn mặt với đầy đủ đặc tính của một “triết gia bi đát”. Bây giờ, những ngôn từ mà anh dày công nhào nặn đã ý thức hơn về vị thế của mình trong đoản - khúc - người, và chúng không còn cưỡng bức xác thân anh đi ngược chiều nhân loại nữa. Những ngôn từ  (bị dòng đời ám ảnh) đã tự sắp đặt thơ. Bây giờ, thơ trở thành tính từ của thân phận mỗi khi cõi lòng anh lên tiếng...Sông Hương xin chuyển tới bạn đọc ba “cột thơ” rút từ ngôi nhà của anh.

  • ...Không còn ở trong vòm cửa hẹpCả khoảng không bừng sáng quanh ta...

  • ...Tiếng aiTrong gióHú dài…

  • LGT: Như một chuyến hành hương về nguồn cội, với nghĩa cử cao đẹp, Công ty Văn hoá Trí tuệ Việt đã cho ra đời tập sách HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN, gồm nhiều thể loại như bút ký, hồi ký, thơ, nhạc,... Đặc biệt hơn hết là danh sách đầy đủ, chính xác của 10.263 anh hùng liệt sĩ yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn.
    Sông Hương xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc những dòng thơ được thắp lên từ HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN - như một nén nhang gọi hồn những người đã ngã xuống!

  • LGT: Trong cuộc đi tìm mình khắc khoải ở trời , Nguyên Quân mang theo những u uẩn của quá nửa phần đời để mỗi buồn ngồi gặm nhấm. Chắc hẳn cũng nhờ vậy, anh đã làm được một điều không dễ - ấy là gọi tên đúng nỗi buồn giữa mênh mang thi phú...Sông Hương xin giới thiệu chùm thơ của Nguyên Quân mà hai trong số đấy sẽ được tuyển vào 700 năm thơ Huế.

  • Hơn một năm trước, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giương cao Lá cờ trắng. Nhưng dường như đấy chỉ là hình thức “trá hàng” của một nàng thơ giữa độ hồi xuân.Không hiểu tự bao giờ, loài cúc dại đã cắm rễ vào cõi hồn đa mang của chị hút đến cả nỗi đau dung dưỡng xác thân trong kiếp luân hồi đầy khổ nạn. Tập thơ mới nhất của chị, là sự bung nở của vô vàn cúc dại, để trí nhớ đất này thêm những phút thăng hoa...

  • HẠ NGUYÊN* Sinh năm 1966 tại Hương Cần - Hương Trà -  TT. Huế* Hội viên Hội Nhà báo Việt , Ủy viên BCH Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế khóa IV (2007 - 2012).* Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế* Có nhiều tác phẩm in chung trong các tuyển tập: “20 truyện ngắn và ký 1975 - 1995”, “25 truyện ngắn và ký 1975 - 2000”, “Thời gian và nỗi nhớ”, “Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy”, “Thừa Thiên Huế trong cơn đại hồng thủy (2000)” v.v.

  • NGUYỄN THIỀN NGHITên  thật là Nguyễn Bồn, sinh năm 1948 tại Phú Vang, Thừa Thiên Huế.Hội viên Hội Nhà văn TT.Huế.Hiện là giáo viên của Trung tâm Giáo dục thường xuyên Hương Thuỷ.