PHAN NGỌC MINH
Từ lâu, tôi mong ước có một chuyến đi xem và vẽ Kinh Thành Huế. Ý tưởng ấy đã thực hiện vào Thu 1995. Lần ấy, được trên mười bức ký họa, những cơn mưa cứ kéo dài, cuối cùng, tôi đành rời Huế trong tâm trạng đầy lưu luyến.
Phan Ngọc Minh qua nét vẽ của Nguyễn Quang Chơn
Lần này trở lại Huế, chuyến đi kéo dài hơn một tháng (từ 2 - 5 đến 12 - 6 - 2009), vẽ được trên ba mươi ký họa về chân dung, phong cảnh. Đặc biệt, một loạt ký họa chân dung văn nghệ: Nghệ nhân, Nhà thơ, Họa sĩ… mà tôi yêu mến.
1. Nguyễn Đính (Nhà thơ Trần Vàng Sao). Một buổi chiều, cùng nhà thơ Nguyễn Đông Nhật, tôi đến thăm anh Nguyễn Đính (nhà thơ Trần Vàng Sao), ở một con ngõ quanh sâu, vùng Vỹ Dạ. Căn nhà hẹp, trong khu vườn nhỏ, đơn sơ nhưng treo đầy tranh.
Hôm ấy, anh, cùng một người bạn của anh tiếp chúng tôi. Vừa uống cùng các anh vài hớp bia Huda, bất chợt tôi nhìn vào góc tường có một bức chân dung Bồ Đề Đạt Ma. Như hiểu được ý khách, anh liền nói: “Bức ấy mình vừa vẽ xong”. Với cái nhìn của người trong nghề, bức chân dung đó đã mách bảo với tôi nhiều điều. Nhất là đôi mắt, ẩn chứa đầy tâm trạng của người vẽ. Tôi nhìn Bồ Đề Đạt Ma. Nhìn anh, rồi rút bút, mở kẹp giấy, vẽ chân dung anh.
Anh làm thơ rất sớm, những câu thơ quen thuộc: “Buổi sáng, tôi mặc áo, đi giày, ra đứng ngoài đường/ Gió thổi những bông mía trắng bên sông/ Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua/ Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà(...)” (Bài thơ của một người yêu nước mình - 1967), từng tham gia đấu tranh trong phong trào SVHS ở Huế, rồi theo Cách mạng vào rừng năm 1965, khi đang là chàng sinh viên của Đại học Văn khoa. Anh tuổi Tân Tỵ (69 tuổi), công việc thường ngày bây giờ của anh là đọc sách, làm thơ, đặc biệt là vẽ lại những mặt người trong bộ bài Tới: Thầy, Trò, Quan, Ngủ, Bóng... và chân dung Bồ Đề Đạt Ma chỉ để tặng bạn bè chơi. Giờ, nhìn bức chân dung ký họa anh, tôi nhận ra trong đôi mắt ấy, như có một điều gì đó anh chưa nói!?
2. Trần Kích (Nghệ nhân Nhã Nhạc Cung Đình). Kiệt 320 nằm ở cuối đường Bạch Đằng, tôi men theo ngõ, ngách và cuối cùng cũng gặp được ông lão nghệ nhân trong sổ tay của mình. Đó là bác Trần Kích, nghệ nhân chơi nhạc cụ “Nhã nhạc Cung Đình” rất nổi tiếng, sử dụng điêu luyện nhiều nhạc cụ: Đàn Tỳ Bà, Nguyệt, Nhị, Sáo. Anh Trần Thảo, con trai bác hiện là giảng viên hướng dẫn môn nhạc cụ Nhã nhạc Cung Đình tại Học viện Âm nhạc Huế, nói: “Ba tôi sức khỏe yếu lắm, anh cần gì, cứ hỏi tôi”.
Qua anh, tôi biết: Ông đã từng giảng dạy bộ môn “Nhã nhạc Cung Đình” tại trường Quốc gia Âm nhạc Huế từ năm 1963 đến 1984, dù đã nghỉ hưu, nhưng bác vẫn tiếp tục thỉnh giảng cho đến nay. Gần đây, sức yếu, không tự đi xe đạp được, đến giờ dạy, anh Thảo chở bác đến trường. Là một nhà giáo tận tụy truyền nghề, một nghệ nhân sử dụng nhạc cụ truyền thống, bác đã từng là thành viên trong đội Hòa thanh (Nhạc Cung Đình) dưới thời Vua Bảo Đại, không chỉ biểu diễn trong nước, mà ông đã mang tiếng đàn truyền thống dân tộc mình đi sang Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippine. Năm 1995, bác được mời đi diễn tại các nước Châu Âu: Pháp, Bỉ, Hòa Lan,... Trần Kích - nghệ nhân Nhã nhạc Cung đình, đã nhận được nhiều bằng khen tặng của Bộ Văn hóa, Viện Âm nhạc Việt Nam. Năm 2007, được Bộ Văn hóa phong Nghệ sĩ ưu tú và nhiều bằng khen. 2008, được Bộ Văn hóa và Thông tin Pháp phong tặng bằng: Hiệp sĩ Văn hóa.
3. Hoàng Đăng Nhuận (Họa sĩ). Nhà anh đẹp hơn trí tưởng tượng của tôi, đó là căn nhà vườn, nằm ngay dốc cầu Lim 2, (đường lên đồi Thiên An), trong vườn nhiều hoa lan khoe sắc, nhiều cây xanh bóng mát. Nơi đây cũng là quán cafe, trên tường treo đầy tranh, khách vừa uống cafe, vừa xem tranh của Nhuận vẽ về phố cũ, thành xưa, với tông màu gris điểm chút đỏ son, rất Huế, mà cũng rất sang trọng và ấn tượng.
Anh vừa trải qua cơn bệnh tai biến máu não, chỉ cử động được tay trái, chân đi lại khó khăn, dù vậy, anh vẫn say sưa nói chuyện vẽ tranh, triển lãm... Anh nói: “Mình cầu mong, bàn tay trái cử động được, để mình vẽ là quý rồi!”.
Căn phòng anh ngổn ngang tranh. Tranh treo tường. Tranh đang vẽ dở dang. Ở một góc, có nhiều khung vải chưa vẽ, bên cạnh cọ, palette màu... và trên mảng tường gạch có rất nhiều chữ ký của bạn bè văn nghệ sĩ trong và ngoài nước: Đinh Cường, Đặng Tiến, Lê Văn Ngăn, Phan Cẩm Thượng, Nguyễn Thương Hỷ... Họ đến thăm họa sĩ, trước khi rời để lại chữ ký làm kỷ niệm.
4. Nguyễn Thị Mẫn - nghệ danh Minh Mẫn. Kiệt 110 Nhật Lệ, trong Thành nội, căn nhà nhỏ số 21, tọa lạc trong cuối con hẻm, là nơi nữ sĩ - ca Huế danh tiếng mà người dân Huế gọi thân thương hai chữ Minh Mẫn. Hôm tôi đến, căn bệnh của bà do bị té gãy xương chậu, vẫn còn đau, đi lại rất khó khăn, nhưng bà vẫn hân hoan tiếp khách một cách chân tình. Tôi nói: “Cháu từ Đà Nẵng ra Huế, đến thăm bác và xin vẽ một bức chân dung của bác làm kỷ niệm”. Bà cười, rồi đi tựa cây nạng bốn chân, vào trong một lúc, bà trở ra với trang phục rất lộng lẫy không ngờ: tà áo dài lụa xanh lơ tím, cổ đeo dây chuỗi ngọc, tay cầm cặp phách (bộ gõ), rồi bà chậm rãi ngồi xuống ghế, đôi tay gõ phách và hát rằng: “Nét xuân nay đã phai rồi/ Mấy người chìu chuộng/ Ai là kẻ tìm hoa trong đám hoa rơi...” (điệu Nam ai); bà kể tiếp: Tôi yêu lời ca, tiếng hát, từ thuở nhỏ mà thành cái nghiệp, giờ nhìn lại ngót 60 năm ca hát, đã từng hát cho vua nghe. Rồi sau này, từng đi hát khắp mọi miền đất nước”...
Hiện tuổi già, sức yếu nhưng bà vẫn nhờ con cháu đưa đến Câu lạc bộ ca Huế, trên đường Phạm Ngũ Lão, hát chơi. Có nhiều đoàn khách từ Sài Gòn, Hà Nội, yêu giọng hát của bà, đến mời bà, rồi họ tự nguyện cõng bà xuống thuyền hát cho họ nghe.
Cụ bà Nguyễn Thị Mẫn đã được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Dân gian vào năm 2007 và nhiều Bằng khen của Huế.
5. Léopold Cadière (Cố cả). Tại Đại Chủng Viện Kim Long - Huế, tôi được một chủng sinh đưa tôi ra khu vườn phía sau Giáo đường của Chủng Viện xem mộ. Có khoảng trên 40 mộ của các Cha cố chôn cất ở đây, và xây theo một mẫu giống nhau rất đơn sơ. Người chủng sinh, đưa tay chỉ: “Đó là mộ của Cha cố, Cadière”. Nhờ tấm bia đá nhỏ, tôi đọc được tên: Léopold Cadière (1869 - 1955, Cố cả...)
Léopold Cadière, sinh tại Aix - en - Provence (Pháp) năm 1869 đến Việt Nam 1892, lúc 23 tuổi, là một Linh Mục thuộc Hội Thừa sai Paris, ngài làm việc ở Giáo phận Huế, ngoài việc đạo, ngài đã dành nhiều thời gian công sức nghiên cứu về Huế. Ngài chính là người sáng lập và chủ biên tập san “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Tập san những người bạn hiếu Huế xưa), viết tắt là BAVH, ra mỗi năm 4 số, có rất nhiều cộng tác viên người Pháp - Việt tham gia viết bài, từ năm 1914 đến 1944, ra được 122 tập. Nhà nghiên cứu Huế Phan Thuận An, nói: “L. Cadière, là nhà nghiên cứu đầu tiên về Huế, công trình của ngài để lại là tư liệu rất quý báu. Để tỏ lòng tri ân ngài, chúng tôi và đồng nghiệp mong muốn lãnh đạo Huế sẽ đặt tên ngài cho một con đường”.
Tạm biệt khuôn viên Đại Chủng Viện lúc bóng tà dương sắp khuất, thấp thoáng bóng dáng các Soeurs vẫn còn nhẫn nại chăm sóc những cây bưởi cuối góc vườn, nhìn vài chú chim đang lượn lờ trên nấm mộ - nơi lòng đất ấy có hình hài của một người tha hương, một vị Cố cả người Pháp - L.Cadière đang yên nghỉ - nơi mảnh đất mà ngài yêu trọn đời.
Giờ, ngồi vẽ lại bức di ảnh của ngài do vài người bạn Huế gửi, bức ảnh một vị cố Linh Mục, có râu quai nón bạc phơ, dài tới ngực, đôi mắt sâu sáng ngời, trông rất nhân từ. Tôi nhìn bức ảnh, cảm nhận rằng, dường như ngài đã “hóa thân” thành người Việt từ bao giờ” - Xin cầu nguyện cho linh hồn ngài luôn vui hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng.
Tôi đã từng vẽ chân dung một số văn nghệ sĩ: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Thái Ngọc San (Nhà thơ), Nguyễn Đắc Xuân (Nhà nghiên cứu), Bửu Ý (Nhà Văn - Dịch giả),...
Chuyến đi lần này, tôi được gặp gỡ và vẽ chân dung một số văn nghệ Huế, mà tôi yêu mến: Cụ La Cháu (Nghệ nhân Hát bội, 99 tuổi), Nhà nghiên cứu Phan Thuận An, Nhà văn Trần Thùy Mai, Nhà thơ Lê Văn Ngăn, Phạm Tấn Hầu, Kỳ Hữu Phước (Nghệ nhân tranh Dân gian làng Sình)... Ngoài ra, tôi còn vẽ được những bức phong cảnh từ phố cổ Bao Vinh, cầu Ngói Thanh Toàn (Thanh Thủy), Đình Dương Nỗ (Phú Dương, Phú Vang) đến Phủ Tuy Lý Vương (Nhà thơ Vỹ Dạ), La Hán (Chùa Diệu Đế), thuyền trên sông Gia Hội,...
Bộ tranh ký họa không chỉ giúp tôi hiểu thêm về con người và cảnh vật của một vùng đất đầy dấu ấn và dấu tích văn hóa mà còn là tư liệu quý, gợi nguồn cảm hứng cho tôi tiếp tục vẽ cái gì đó trong cảm nhận của tôi về Huế - một địa danh mà tôi hằng ngưỡng mộ.
CHAMPA, CHAMPA & MINH
Khởi đi từ những ký họa (sketch), về Hội An, về Mỹ Sơn… Nét bút tài hoa, đầy tình cảm mà tôi được xem, cho tôi quý mến người họa sĩ này. |
Huế - Đà Nẵng, tháng 9/2009
P.N.M
(SDB8/3-13)
Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?
NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)
VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.
VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.
PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...
“Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)
NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.
(Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.
Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.
VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...
VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.
HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.
PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.
NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.
NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.
HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.
VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.
NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.