ĐỖ KIM CUÔNG
1.
44 năm trước khi mới chỉ là chàng trai 17 tuổi, sốt rét quặt quẹo, nằm trong căn hầm dã chiến thuộc trạm xá tiền phương sư đoàn 324, đặt dưới chân điểm cao 360, bên sông Bồ chịu trận với hàng trăm quả pháo và từng đợt máy bay B57 của không quân Mỹ phá nát rừng Hương Trà, chưa bao giờ trong tôi nẩy ra ý nghĩ một ngày kia mình sẽ viết văn.
Nhà văn Đỗ Kim Cuông - Ảnh: internet
44 năm trước khi còn là anh lính bộ binh của KX thuộc Công trường VI, suốt ngày mặc quần đùi áo xắn tay cao, vác khẩu AK đi bám địch ở bờ Khe Trái, bò vào bãi quân Mỹ, quân Ngụy đổ quân, vừa lo bám địch vừa lượm gạo sấy, hộp Mỹ vất lại trên bãi về cứu đói cho cả đại đội, trung đội… Sau nhiều phen hút chết, tôi chẳng dám nghĩ mình sẽ còn sống, còn có một ngày trở về quê hương để được tiếp tục vào đại học, để rồi viết văn, làm báo.
Hơn 40 năm trước sau mỗi lần bị quân Mỹ, quân Ngụy phục kích, chốt chặn ở Khe Trái, Dốc Đoác, địa đạo 310; đánh nhau với tụi lính Bảo an, dân vệ, lính của sư đoàn 54 Ngụy ở Dốc Đu, Dốc Cát, đồi Chóp Nón, Hòn Vượn, ở Phú Ổ La Chử, Văn Xá Trung, Văn Xá Làng, Bồn Chí, Bồn Phổ… vừa đào đất chôn bạn mình, vừa giật mình tự hỏi: “Sao mi lại còn sống? Sau những trái mìn Claymo lửa chớp xanh lè?”. Càng không mơ tưởng mình sẽ viết văn.
Tháng trước, Hội Nhà văn Việt Nam có cuộc gặp mặt thân mật với một số nhà văn cựu chiến binh Mỹ. Nhân chuyến về Huế, tôi được đi thuyền cùng họ ngược dòng Hương Giang. Hỏi chuyện nhà văn Kevin Bowen mới biết ông cũng từng đi lính, thuộc sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ. Vào mùa xuân năm 1968, 1969 sư đoàn này là quân chủ lực Mỹ đánh ở chiến trường Trị Thiên Huế. Tôi có nhắc đến một vài địa danh: Dốc Chè (điểm cao 1078), Coocava, Rào Trăng, Rào Lu, Núi Bông, Điểm cao 360, Khe Trái, Động Tranh - Bình Điền và cả cái địa đạo 310, có 3 cửa ăn thông ra 3 hướng - vốn là căn cứ tiền phương của bộ chỉ huy quân khu Trị Thiên khi đánh về Huế dạo Mậu Thân… nhà văn Kevin đều biết cả. Tôi không tiện hỏi ông, vào cái năm 1969 ấy, người lính Mỹ Kevin mang cấp bậc gì, ông là lính bộ binh, hay ở cơ quan tham mưu hậu cần. Khi biết tôi là người lính đã từng đụng đầu với lính ở sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ, Kevin vừa tỏ ra ngạc nhiên, vừa vui.
Tôi nói đùa với ông rằng: “May mà những lần đơn vị tôi và các ông chạm súng, trong những cuộc giáp chiến, đánh chốt ở điểm cao 360, Khe Trái, cái chết đã không tìm đến hai ta. Để bây giờ tôi và ông lại được ngồi bên nhau, nhắc chuyện cũ và viết văn. Cuộc sống quả là kỳ diệu, thưa ông”.
Ngồi nói chuyện dông dài một hồi lâu, Kevin và một nhà thơ nữ hỏi tôi: “Trong cuộc sống hiện đại này anh sợ nhất điều gì?”. Tôi đáp: “Chiến tranh. Dân tộc nào cũng vậy thôi. Đấy là điều chúng ta đã trải qua và chứng kiến… Ông có biết không? Bây giờ mỗi lần tôi về quê, quê tôi một thành phố vùng đồng bằng Bắc Bộ, tôi sợ nhất phải gặp một số người thân. Nhìn ánh mắt họ nhìn tôi, như tự hỏi: “Sao chỉ có tôi trở về, còn con cái họ đang ở đâu? Ở đâu?!” Chỉ riêng lớp học cấp III của tôi 27 người cùng nhập ngũ 1 ngày, cùng vượt Trường Sơn vào Nam đánh giặc, ngày trở về chỉ còn lại vài người. Cái giá của chiến tranh là vậy. Nghe tôi kể câu chuyện đó gương mặt Kevin Bowen sững sờ, xúc động.
2.
Đã có hàng chục cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn của các nhà văn trong cả nước viết về cuộc chiến đấu của quân dân Trị Thiên chống ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Nhiều tác phẩm đã lên phim, lên sân khấu. Đó là các tiểu thuyết của các nhà văn như Phùng Quán, Xuân Thiều, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường… nhưng có lẽ vẫn là chưa đủ. Ngồn ngộn hiện thực của cuộc sống và con người Trị Thiên trải dài qua cả thế kỷ sống trong binh đao, lửa đạn, giữa cái sống và cái chết. Ngay những điều tôi biết, trải nghiệm về cuộc chiến ở vùng đất này đã khai thác để đưa vào truyện ngắn tiểu thuyết cũng chỉ là một mảng nhỏ của bức tranh chiến sự bộn bề.
Cứ mỗi lần về Huế, đi qua cầu Trường Tiền, đến nhịp cầu giữa sông, đây là nhịp cầu từng bị đánh sập vào dạo Tết Mậu Thân (1968) để chặn đường phục kích của quân Mỹ, tôi thường tự hỏi: người lính công binh nào đã gài cả tạ thuốc nổ để làm sập cây cầu? Bây giờ anh ở đâu? Còn sống hay chết? Người lính bộ binh nào của Công trường V, Công trường VI, Công trường IV, của KX, KIV, KVI… (mật danh để gọi tên các Trung đoàn và tiểu đoàn chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên - Huế); những người lính đặc công của Thành đội Huế… còn sống sau những lần đánh chặn quân Mỹ ở quán cơm Âm Phủ, cầu Kho Rèn, chợ Đông Ba, sau những lần bom Mỹ ném vào Thành nội.
Tôi đã kể cho nhà văn Kevin chuyện này để ông hiểu và chia sẻ những cố gắng lớn lao của Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ suốt mấy chục năm qua đau đáu trong việc đi tìm hài cốt của những người lính ở cả các bên tử nạn trong chiến tranh. Nhiều lần đại đội bộ binh của tôi đi bám địch, đi gùi gạo, gùi đạn dọc theo các bờ Khe Trái, Khe Điên trong vùng rừng Hương Trà không ít lần gặp đây đó dưới những gốc cây, trong hộc đá những chiếc mũ sắt, bi đông nước, vật dụng của những người lính Mỹ, lính Ngụy Sài Gòn vất lại. Có khi còn lượm được những khẩu AR15 gãy báng, súng phóng lựu… cùng với những chiếc mũ tai bèo bê bết máu, súng AK… dấu tích của những trận chiến, gài mìn trong rừng của cả hai phía. Có khi gặp cả những xác chết không còn nguyên vẹn… Cho nên không có gì lấy làm lạ cho đến bây giờ, chiến tranh đã nguội tàn sau nhiều năm, cuộc sống hòa bình đã trở lại nhưng vẫn còn nhiều người lính chưa trở về. Đấy là nỗi ám ảnh của những người lính cả hai phía, nỗi đau chung của các bà mẹ. Và tôi cũng nói với nhà văn Kevin rằng viết về chiến tranh cách mạng đối với mỗi nhà văn Việt Nam hôm nay vẫn còn là nỗi ám ảnh khôn nguôi. Ông cũng đồng ý với tôi như vậy.
3.
Nhưng có điều đáng buồn trong công chúng bạn đọc ngày nay và tâm lí của cả người viết nữa. Dường như nhiều người viết không còn đam mê, tâm huyết với đề tài chiến tranh. Ở phía người đọc - nhất là lớp trẻ, các cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh cũng không mấy mặn mà. Có thể các tác phẩm viết chưa hay, chưa cuốn hút người đọc nhưng giữa cuộc sống hòa bình, lo kiếm kế sinh nhai, lo chuyện làm giàu, lo chuyện học hành… dường như chuyện bom đạn chết chóc, máy bay oanh tạc… chuyện đói khát cùng cực của thế hệ cha anh họ dường như là chuyện cổ tích xa xưa, người lớn kể như là “chuyện bịa” để lấy đó làm bài học giáo dục cho con cháu, hơn là sự soi chiếu hiện thực của một thời giữa cuộc sống đô thị hỗn tạp, ngập tràn hàng hóa, gạo cơm…
Những năm gần đây không thiếu những cuộc thi văn chương, nhưng quả thật vẫn thiếu vắng các tác phẩm văn xuôi viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Một số tác giả tìm về với đề tài lịch sử, một số khác đến với những vấn đề của đương đại. Họ quên mất vẫn còn cả chục triệu người, lớp tuổi từ 50 trở lên - thế hệ từng đi qua chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới… Những người ấy không ít vẫn hoài niệm về những năm tháng xa xưa của cuộc chiến, dù có bị “con cháu mắng” là hoài cổ. Họ không dứt bỏ được tiếng bom đạn, tiếng máy bay, tiếng pháo bắn trong những trận đánh, những ngày chui lủi trong rừng… ám ảnh trong những giấc mơ. Có người gọi đấy là “Hội chứng Rừng”…
Tôi nhớ năm 1986, tại trại viết của Hội Nhà văn tổ chức ở Việt Trì (Phú Thọ), tôi, nhà thơ Ngô Minh, nhà văn Ngô Khắc Tài, cố nhà văn Nguyễn Đức Thọ tham dự. Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong buổi nói chuyện có nói: “Chúng ta mong muốn có những tác phẩm lớn viết về chiến tranh, về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Có thể cũng đã có rồi. Thành tựu cũng rất đáng trân trọng… nhưng biết đâu 100 năm sau, 200 năm sau lớp con cháu chúng ta sẽ xuất hiện những nhà văn vĩ đại (ông ví giống như Lep Tonstoi) viết về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta ở thế kỷ XX còn hay hơn cả chúng ta bây giờ… thì sao”. Điều hi vọng của nhà văn Nguyễn Đình Thi có thể là thật trong tiến trình phát triển của văn học nhưng chẳng cần đợi lâu đến vậy. Chỉ vài năm sau văn học ta đã có “Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội” của Lê Lựu, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Bến không chồng” của Dương Hướng và nhiều cuốn tiểu thuyết, tập truyện ngắn của nhiều nhà văn viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Chuyện hay hay dở, lớn hay bé, cao hay thấp cho một cuốn tiểu thuyết xin dành cho công chúng và thời gian… Nhưng tôi tin một điều với tâm huyết của người cầm bút, vốn sống từng trải, và cả nỗi thắc thỏm không yên của một lớp người đã từng đi qua chiến tranh, với một độ lùi gần 40 năm, mảng đề tài viết về chiến tranh vẫn còn là món nợ của họ với mảnh đất này.
Và nếu làm được điều ấy đã là sự đóng góp to lớn của văn xuôi trong dòng chảy văn học nghệ thuật vùng đất Cố đô Huế.
Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 2012
Đ.K.C
(SH281/7-12)
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.