ĐỖ KIM CUÔNG
1.
44 năm trước khi mới chỉ là chàng trai 17 tuổi, sốt rét quặt quẹo, nằm trong căn hầm dã chiến thuộc trạm xá tiền phương sư đoàn 324, đặt dưới chân điểm cao 360, bên sông Bồ chịu trận với hàng trăm quả pháo và từng đợt máy bay B57 của không quân Mỹ phá nát rừng Hương Trà, chưa bao giờ trong tôi nẩy ra ý nghĩ một ngày kia mình sẽ viết văn.
Nhà văn Đỗ Kim Cuông - Ảnh: internet
44 năm trước khi còn là anh lính bộ binh của KX thuộc Công trường VI, suốt ngày mặc quần đùi áo xắn tay cao, vác khẩu AK đi bám địch ở bờ Khe Trái, bò vào bãi quân Mỹ, quân Ngụy đổ quân, vừa lo bám địch vừa lượm gạo sấy, hộp Mỹ vất lại trên bãi về cứu đói cho cả đại đội, trung đội… Sau nhiều phen hút chết, tôi chẳng dám nghĩ mình sẽ còn sống, còn có một ngày trở về quê hương để được tiếp tục vào đại học, để rồi viết văn, làm báo.
Hơn 40 năm trước sau mỗi lần bị quân Mỹ, quân Ngụy phục kích, chốt chặn ở Khe Trái, Dốc Đoác, địa đạo 310; đánh nhau với tụi lính Bảo an, dân vệ, lính của sư đoàn 54 Ngụy ở Dốc Đu, Dốc Cát, đồi Chóp Nón, Hòn Vượn, ở Phú Ổ La Chử, Văn Xá Trung, Văn Xá Làng, Bồn Chí, Bồn Phổ… vừa đào đất chôn bạn mình, vừa giật mình tự hỏi: “Sao mi lại còn sống? Sau những trái mìn Claymo lửa chớp xanh lè?”. Càng không mơ tưởng mình sẽ viết văn.
Tháng trước, Hội Nhà văn Việt Nam có cuộc gặp mặt thân mật với một số nhà văn cựu chiến binh Mỹ. Nhân chuyến về Huế, tôi được đi thuyền cùng họ ngược dòng Hương Giang. Hỏi chuyện nhà văn Kevin Bowen mới biết ông cũng từng đi lính, thuộc sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ. Vào mùa xuân năm 1968, 1969 sư đoàn này là quân chủ lực Mỹ đánh ở chiến trường Trị Thiên Huế. Tôi có nhắc đến một vài địa danh: Dốc Chè (điểm cao 1078), Coocava, Rào Trăng, Rào Lu, Núi Bông, Điểm cao 360, Khe Trái, Động Tranh - Bình Điền và cả cái địa đạo 310, có 3 cửa ăn thông ra 3 hướng - vốn là căn cứ tiền phương của bộ chỉ huy quân khu Trị Thiên khi đánh về Huế dạo Mậu Thân… nhà văn Kevin đều biết cả. Tôi không tiện hỏi ông, vào cái năm 1969 ấy, người lính Mỹ Kevin mang cấp bậc gì, ông là lính bộ binh, hay ở cơ quan tham mưu hậu cần. Khi biết tôi là người lính đã từng đụng đầu với lính ở sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ, Kevin vừa tỏ ra ngạc nhiên, vừa vui.
Tôi nói đùa với ông rằng: “May mà những lần đơn vị tôi và các ông chạm súng, trong những cuộc giáp chiến, đánh chốt ở điểm cao 360, Khe Trái, cái chết đã không tìm đến hai ta. Để bây giờ tôi và ông lại được ngồi bên nhau, nhắc chuyện cũ và viết văn. Cuộc sống quả là kỳ diệu, thưa ông”.
Ngồi nói chuyện dông dài một hồi lâu, Kevin và một nhà thơ nữ hỏi tôi: “Trong cuộc sống hiện đại này anh sợ nhất điều gì?”. Tôi đáp: “Chiến tranh. Dân tộc nào cũng vậy thôi. Đấy là điều chúng ta đã trải qua và chứng kiến… Ông có biết không? Bây giờ mỗi lần tôi về quê, quê tôi một thành phố vùng đồng bằng Bắc Bộ, tôi sợ nhất phải gặp một số người thân. Nhìn ánh mắt họ nhìn tôi, như tự hỏi: “Sao chỉ có tôi trở về, còn con cái họ đang ở đâu? Ở đâu?!” Chỉ riêng lớp học cấp III của tôi 27 người cùng nhập ngũ 1 ngày, cùng vượt Trường Sơn vào Nam đánh giặc, ngày trở về chỉ còn lại vài người. Cái giá của chiến tranh là vậy. Nghe tôi kể câu chuyện đó gương mặt Kevin Bowen sững sờ, xúc động.
2.
Đã có hàng chục cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn của các nhà văn trong cả nước viết về cuộc chiến đấu của quân dân Trị Thiên chống ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Nhiều tác phẩm đã lên phim, lên sân khấu. Đó là các tiểu thuyết của các nhà văn như Phùng Quán, Xuân Thiều, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Hà, kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường… nhưng có lẽ vẫn là chưa đủ. Ngồn ngộn hiện thực của cuộc sống và con người Trị Thiên trải dài qua cả thế kỷ sống trong binh đao, lửa đạn, giữa cái sống và cái chết. Ngay những điều tôi biết, trải nghiệm về cuộc chiến ở vùng đất này đã khai thác để đưa vào truyện ngắn tiểu thuyết cũng chỉ là một mảng nhỏ của bức tranh chiến sự bộn bề.
Cứ mỗi lần về Huế, đi qua cầu Trường Tiền, đến nhịp cầu giữa sông, đây là nhịp cầu từng bị đánh sập vào dạo Tết Mậu Thân (1968) để chặn đường phục kích của quân Mỹ, tôi thường tự hỏi: người lính công binh nào đã gài cả tạ thuốc nổ để làm sập cây cầu? Bây giờ anh ở đâu? Còn sống hay chết? Người lính bộ binh nào của Công trường V, Công trường VI, Công trường IV, của KX, KIV, KVI… (mật danh để gọi tên các Trung đoàn và tiểu đoàn chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên - Huế); những người lính đặc công của Thành đội Huế… còn sống sau những lần đánh chặn quân Mỹ ở quán cơm Âm Phủ, cầu Kho Rèn, chợ Đông Ba, sau những lần bom Mỹ ném vào Thành nội.
Tôi đã kể cho nhà văn Kevin chuyện này để ông hiểu và chia sẻ những cố gắng lớn lao của Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ suốt mấy chục năm qua đau đáu trong việc đi tìm hài cốt của những người lính ở cả các bên tử nạn trong chiến tranh. Nhiều lần đại đội bộ binh của tôi đi bám địch, đi gùi gạo, gùi đạn dọc theo các bờ Khe Trái, Khe Điên trong vùng rừng Hương Trà không ít lần gặp đây đó dưới những gốc cây, trong hộc đá những chiếc mũ sắt, bi đông nước, vật dụng của những người lính Mỹ, lính Ngụy Sài Gòn vất lại. Có khi còn lượm được những khẩu AR15 gãy báng, súng phóng lựu… cùng với những chiếc mũ tai bèo bê bết máu, súng AK… dấu tích của những trận chiến, gài mìn trong rừng của cả hai phía. Có khi gặp cả những xác chết không còn nguyên vẹn… Cho nên không có gì lấy làm lạ cho đến bây giờ, chiến tranh đã nguội tàn sau nhiều năm, cuộc sống hòa bình đã trở lại nhưng vẫn còn nhiều người lính chưa trở về. Đấy là nỗi ám ảnh của những người lính cả hai phía, nỗi đau chung của các bà mẹ. Và tôi cũng nói với nhà văn Kevin rằng viết về chiến tranh cách mạng đối với mỗi nhà văn Việt Nam hôm nay vẫn còn là nỗi ám ảnh khôn nguôi. Ông cũng đồng ý với tôi như vậy.
3.
Nhưng có điều đáng buồn trong công chúng bạn đọc ngày nay và tâm lí của cả người viết nữa. Dường như nhiều người viết không còn đam mê, tâm huyết với đề tài chiến tranh. Ở phía người đọc - nhất là lớp trẻ, các cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh cũng không mấy mặn mà. Có thể các tác phẩm viết chưa hay, chưa cuốn hút người đọc nhưng giữa cuộc sống hòa bình, lo kiếm kế sinh nhai, lo chuyện làm giàu, lo chuyện học hành… dường như chuyện bom đạn chết chóc, máy bay oanh tạc… chuyện đói khát cùng cực của thế hệ cha anh họ dường như là chuyện cổ tích xa xưa, người lớn kể như là “chuyện bịa” để lấy đó làm bài học giáo dục cho con cháu, hơn là sự soi chiếu hiện thực của một thời giữa cuộc sống đô thị hỗn tạp, ngập tràn hàng hóa, gạo cơm…
Những năm gần đây không thiếu những cuộc thi văn chương, nhưng quả thật vẫn thiếu vắng các tác phẩm văn xuôi viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Một số tác giả tìm về với đề tài lịch sử, một số khác đến với những vấn đề của đương đại. Họ quên mất vẫn còn cả chục triệu người, lớp tuổi từ 50 trở lên - thế hệ từng đi qua chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới… Những người ấy không ít vẫn hoài niệm về những năm tháng xa xưa của cuộc chiến, dù có bị “con cháu mắng” là hoài cổ. Họ không dứt bỏ được tiếng bom đạn, tiếng máy bay, tiếng pháo bắn trong những trận đánh, những ngày chui lủi trong rừng… ám ảnh trong những giấc mơ. Có người gọi đấy là “Hội chứng Rừng”…
Tôi nhớ năm 1986, tại trại viết của Hội Nhà văn tổ chức ở Việt Trì (Phú Thọ), tôi, nhà thơ Ngô Minh, nhà văn Ngô Khắc Tài, cố nhà văn Nguyễn Đức Thọ tham dự. Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong buổi nói chuyện có nói: “Chúng ta mong muốn có những tác phẩm lớn viết về chiến tranh, về cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Có thể cũng đã có rồi. Thành tựu cũng rất đáng trân trọng… nhưng biết đâu 100 năm sau, 200 năm sau lớp con cháu chúng ta sẽ xuất hiện những nhà văn vĩ đại (ông ví giống như Lep Tonstoi) viết về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta ở thế kỷ XX còn hay hơn cả chúng ta bây giờ… thì sao”. Điều hi vọng của nhà văn Nguyễn Đình Thi có thể là thật trong tiến trình phát triển của văn học nhưng chẳng cần đợi lâu đến vậy. Chỉ vài năm sau văn học ta đã có “Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội” của Lê Lựu, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Bến không chồng” của Dương Hướng và nhiều cuốn tiểu thuyết, tập truyện ngắn của nhiều nhà văn viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Chuyện hay hay dở, lớn hay bé, cao hay thấp cho một cuốn tiểu thuyết xin dành cho công chúng và thời gian… Nhưng tôi tin một điều với tâm huyết của người cầm bút, vốn sống từng trải, và cả nỗi thắc thỏm không yên của một lớp người đã từng đi qua chiến tranh, với một độ lùi gần 40 năm, mảng đề tài viết về chiến tranh vẫn còn là món nợ của họ với mảnh đất này.
Và nếu làm được điều ấy đã là sự đóng góp to lớn của văn xuôi trong dòng chảy văn học nghệ thuật vùng đất Cố đô Huế.
Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 2012
Đ.K.C
(SH281/7-12)
Tiếp theo Thánh Gióng, lại thêm một vị “Tứ Bất tử” nữa của người Việt Nam được dựng tượng. Đó là Đức Thánh Tản, hay Tản Viên Sơn Thánh, hay gọi một cách học trò là Sơn Tinh, gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh.
“Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.
Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?
Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.
Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.
Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…
Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”
Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.
Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.
L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.
Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.
Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...
Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.
Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt
Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.
Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.