YẾN THANH
Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…
Ảnh: internet
Dĩ nhiên, mức độ thành công, chuyên tâm, lâu bền của những nhà văn này trên địa hạt thiếu nhi là khác nhau, song điều này cũng làm nên một xu hướng đáng chú ý của văn đàn Việt Nam đương đại: xu hướng quan tâm tới bạn đọc nhỏ tuổi, hoặc sự quy hồi về tuổi thơ của những nhà văn thành danh.
Văn Thành Lê cũng nằm chung trong quỹ đạo đó, sau khá nhiều thành công ở mảng văn học áo trắng, học đường như Không biết đâu mà lần, Salan đỏ bãi Xanh, Hình như là tình yêu… Không chuyên tâm/nghiệp hẳn trên địa hạt thiếu nhi như Nguyễn Nhật Ánh, song Văn Thành Lê đang dần khẳng định vị thế vững chắc của mình trên mảng văn học này, sau những Ông mặt trời và mùi hương của mẹ, Trên đồi, mở mắt, và mơ… và gần đây nhất là Bên suối, bịt tai, nghe gió (Nxb. Kim Đồng, 2020). Có thể xem Bên suối, bịt tai, nghe gió chính là phần hai của cuốn tiểu thuyết rất thành công Trên đồi, mở mắt, và mơ từng được in với số lượng 10.000 bản và vẫn tiếp tục có kế hoạch tái bản. Trong tình hình xuất bản ảm đạm hiện nay, trừ sách dịch và Nguyễn Nhật Ánh, con số lên đến một vạn bản có thể xem là một hiện tượng tích cực dành cho văn hóa đọc.
Cuốn tiểu thuyết mỏng với tựa đề đầy chất thơ Bên suối, bịt tai, nghe gió không phải là một tác phẩm xuất sắc, kinh điển viết cho thiếu nhi cỡ như Dế mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán) hay gần đây là Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần)… nhưng vẫn xứng đáng là tác phẩm đáng chú ý và là điểm nhấn đáng ghi nhận trong sự nghiệp Văn Thành Lê.
Bên suối, bịt tai, nghe gió là một tác phẩm ngắn, với chưa đầy 150 trang truyện khổ nhỏ, chưa kể những hình minh họa, nhưng lại là một tác phẩm thú vị, mang tính giáo dục cao, nắm bắt tốt tâm lý và tầm đón nhận của bạn đọc nhỏ tuổi. Người kể chuyện trong tác phẩm là Thành - một cậu bé thiếu nhi thành phố. Cùng với Bống - em gái nhỏ, Thành được về quê ở nông thôn nghỉ hè. Ở đấy, cậu đã có những kỷ niệm đáng nhớ với đám bạn đồng tuổi là Lê thủ lĩnh, Văn lắp, Điệp điệu và Tuyết đen. Tác phẩm truyền tải khéo léo những vấn đề vĩ mô như quá trình đô thị hóa nông thôn, ô nhiễm môi trường, tàn phá di tích lịch sử, nhưng trên hết, nó khuyến khích bạn đọc nhỏ tuổi quay về với nông thôn, với tự nhiên sinh thái.
Lựa chọn một người kể chuyện ngôi thứ nhất, nằm ở độ tuổi thiếu nhi là chiến lược khôn ngoan của tác giả trong tự sự (nhân vật Thành). Nó khiến điểm nhìn trẻ thơ bao quát mọi ngõ ngách tác phẩm, cũng như bạn đọc thiếu nhi dễ tìm thấy sự đồng cảm/điệu. Người kể chuyện ngôi thứ nhất là Thành cũng thường xuyên đối thoại, trò chuyện với bạn đọc, tạo ra sự gần gũi, thân mật và “tinh thần đối thoại” với người tiếp nhận. Sự quan tâm tới người tiếp nhận đã khiến tác phẩm là một cuộc chuyện trò, hồi đáp bất tận. Nếu tinh ý, ta cũng có thể nhận ra sự thú vị trong cách đặt tên nhân vật. Văn Thành Lê đã tự phân thân, chia họ và tên của mình ra thành những nhân vật chính khác nhau, bao gồm Thành - người kể chuyện, Lê thủ lĩnh và Văn lắp. Sự viết là một trải nghiệm phân/hóa thân của nhà văn. Nhà văn càng hóa/phân thân thành công bao nhiêu, tác phẩm sẽ càng thú vị bấy nhiêu. Thành cũng là tên chính thức của nhà văn (Lê Văn Thành), nên có thể xem Bên suối, bịt tai, nghe gió là một tự sự ngôi thứ nhất trực tiếp của tác giả. Những câu chuyện, chi tiết, kỷ niệm, suy ngẫm trong tác phẩm, có thể là những điều thực sự diễn ra trong cuộc đời, tâm tưởng, ký ức của nhà văn một cách sống động, chân thật.
Là một tác phẩm dành cho thiếu nhi, Văn Thành Lê hẳn có nhiều dụng ý khi đặt chức năng giáo dục lên hàng đầu cho đứa con tinh thần của mình. Bạn đọc có thể thông qua tác phẩm nhận thấy nhiều thông tin về lịch sử, về thời sự, về văn hóa đầy dụng ý trong việc xây dựng, bồi đắp tâm hồn trẻ thơ. Nhiều khái niệm, thành ngữ, thuật ngữ có thể quen thuộc với người lớn, song với thiếu nhi có thể còn xa lạ, đã được tác phẩm diễn giải ngắn gọn, khoa học, súc tích nhất có thể. Nhân vật Thành luôn có thói quen tra từ điển tiếng Việt những thuật ngữ, thành ngữ, từ lạ đối với trẻ em. Chính điều này khuyến khích bạn đọc nhỏ tuổi quan tâm đến tiếng Việt nhiều hơn. Trên thực tế, sau sự ra đời của Trên đồi, mở mắt, và mơ, nhiều phụ huynh có tâm sự rằng con của họ từ khi đọc tác phẩm đã mua Từ điển tiếng Việt và có thói quen tra từ điển những từ bé chưa hiểu. Đó là một xu hướng tốt trong tiếp nhận văn học. Ở trang 17, Văn Thành Lê đã cung cấp cho người đọc nhỏ tuổi một loạt những sự kiện trong năm có ý nghĩa văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội như: ngày thành lập Đội thiếu niên Tiền phong, ngày Thương binh liệt sĩ, ngày đất nước thống nhất, ngày Lao động, ngày Quốc khánh, ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày Cách mạng tháng Tám thành công… Đó đều là những nỗ lực đáng ghi nhận của một tác phẩm chuyên dành cho thiếu nhi. Điểm đáng chú ý ở tác phẩm là những chi tiết bồi đắp ý thức dân tộc và lòng yêu nước cho những bạn đọc nhỏ tuổi. Ở trang 52, tác giả đã nhấn mạnh đến thần hoàng làng là một: “tướng quân tham gia khởi nghĩa cùng Lê Lợi đánh giặc Minh từ phương Bắc. Sau khi thắng lợi, ngài không muốn làm quan mà lui về sống cuộc đời an nhàn cùng dân”. Hoặc địa danh núi Nưa ở quê hương của Thành là nơi: “Bà Triệu đã khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô, thuộc nước Trung Quốc bây giờ, từ gần 1800 năm trước, là năm 248” (trang 82 - 83). Các chi tiết nghệ thuật này, dù điểm xuyết nhưng đã mang lại giá trị nghệ thuật và tư tưởng cho tác phẩm. Xét trong hoàn cảnh chính trị quốc tế hiện nay, những giá trị dân tộc, yêu nước mà Văn Thành Lê đặt ra lại càng có ý nghĩa sâu sắc. Ý thức dân tộc không chỉ được nhấn mạnh qua các anh hùng dân tộc, các cuộc chống ngoại xâm, mà còn trong ý thức sử dụng ngôn ngữ thuần Việt. Cuối truyện, các nhân vật chủ trương dùng từ “đám cưới” thuần Việt thay vì từ “vu quy” Hán Việt.
Hơn nữa, tác phẩm mỏng này còn khuyến khích những thói quen tốt, những giá trị tích cực trong cuộc sống mà những em nhỏ cần như văn hóa đọc sách, sự yêu mến tri thức. Quý phụ huynh hoàn toàn nên mua cho con cái mình những tác phẩm có nhiều ý nghĩa giáo dục như vậy, trong hoàn cảnh những tác phẩm giải trí thuần túy, nặng về bạo lực, giật gân đang tràn ngập trên những kệ sách dành cho thiếu nhi.
Song nặng về tính giáo dục, không có nghĩa là Bên suối, bịt tai, nghe gió là một tác phẩm giáo huấn khô khan, nặng nề. Đây vẫn là một tác phẩm hết sức dễ tiếp nhận, tạo ra nhiều hứng khởi trong hành động đọc bởi tác giả tỏ ra là một người kể chuyện có duyên, hiểu được tâm lý bạn đọc sâu sắc. Hài hước, dí dỏm và tâm lý luôn là thế mạnh số một của Văn Thành Lê trong lối viết, được thể hiện từ những tác phẩm đầu tay cho đến nay. Những giá trị và kỹ năng đặc thù mà anh đã từng thể hiện trong Không biết đâu mà lần nay lại một lần nữa được tái hiện trong Bên suối, bịt tai, nghe gió, dĩ nhiên ở một mức độ tiết chế hơn và điều chỉnh lại để phù hợp với bạn đọc nhỏ tuổi. Tiêu biểu là những đoạn khẩu hiện trong trang 57 đến 59 như: “Gia đình hai con vợ - chồng hạnh phúc”. Đây không phải là những chi tiết nghệ thuật do Văn Thành Lê sáng tạo ra, song anh đã quan sát, lượm lặt được từ trong đời sống xã hội, thể hiện một trải nghiệm sống và đọc khá phong phú.
Ngoài ra, tác phẩm của Văn Thành Lê còn quan tâm đến những giá trị đẹp trong tâm hồn mỗi con người, những giá trị mà rất cần khuyến khích, bồi dưỡng ngay từ thuở ấu thơ. Ví dụ như lòng yêu thương động vật bên cạnh lòng yêu thương con người. Tác phẩm đã kể cho chúng ta nghe về hai anh em Bống và Thành đã chăm sóc và hết mực yêu thương chú lợn út được nuôi làm lợn giống. Hóa ra lợn cũng thông minh và giàu tình cảm với con người. “Không chỉ lợn mà con vật nào cũng có thể hiểu con người. Yêu thương nó, nó hiểu. Độc ác với nó, nó cũng hiểu. Con vật sẽ đáp lại bằng lời riêng mỗi loài... Nếu không tin, bạn cứ thử yêu thương một cái cây hay một con vật nào đó đi. Chắc chắn bạn sẽ hiểu được tiếng nói yêu thương của loài đó đáp lại” (trang 36). Đây là những suy tư mà có lẽ không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi, nó khiến tất thảy những người lớn chúng ta cần xem xét lại chính mình đã sống đẹp và sống yêu thương đúng nghĩa hay chưa. Chính vì yêu thương động vật, yêu thương cả cây cối, nên các bạn nhỏ hẳn nhiên sau này sẽ yêu thương con người. Cái chết của bác Phú ở đoạn cuối là một nốt trầm trong tác phẩm, gây ra sự thương nhớ, nuối tiếc lớn cho các bạn nhỏ vì bác rất hiền lành cũng như yêu thương lũ trẻ. Đó là một nốt trầm cần thiết trong một bản nhạc vui, để bạn đọc nhỏ tuổi ý thức sâu hơn về tình yêu thương, về sự hữu hạn của kiếp người để sống sao cho tốt hơn, ý nghĩa hơn. Mối quan hệ gia đình cũng được tác phẩm nhấn mạnh, nhất là quan hệ giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và con cháu. Mọi thế hệ đều quan tâm, chú ý và yêu thương nhau như cội nguồn của hạnh phúc, đó chính là thông điệp đáng mơ ước của Văn Thành Lê trong tác phẩm.
Hẳn rằng Bên suối, bịt tai, nghe gió là một tác phẩm thú vị với bạn đọc nhỏ tuổi. Ngoài những giá trị đã trình bày ở trên, còn là những trò chơi dân gian đầy thú vị của tuổi thơ. Tiêu biểu là trò chơi nghịch ngợm “Tôi đi đám ma” mà những nhân vật chính đã từng chơi. Những trò chơi dân gian, diễn ra trong thời thơ ấu luôn là kỷ niệm đẹp đối với bất kỳ ai đã từng có tuổi thơ. Nó rất khác những trò chơi game điện tử ngày nay đang dần chiếm lĩnh sân chơi của những bạn nhỏ. Trò chơi dân gian kết nối bạn bè trong thực tại, là trò chơi vận động, kết hợp cá nhân lại với nhau, bồi đắp trí tưởng tượng bay bổng. Việc xuất hiện “liên văn bản” của các tác phẩm thơ cũng tạo ra sự bay bổng, lãng mạn cần thiết, khuyến khích bạn đọc nhỏ tuổi đam mê văn chương nói chung và tập làm thơ nói riêng.
Cuốn tiểu thuyết mỏng của Văn Thành Lê không chỉ viết cho những bạn đọc nhỏ tuổi ngày hôm nay, mà còn cho những bạn đọc nhỏ tuổi ngày hôm qua - những người hôm nay đã trưởng thành như chính tác giả. Bên suối, bịt tai, nghe gió do vậy đầy ắp những kỷ niệm ấu thơ của thế hệ 7x, 8x chúng tôi, như việc mỗi lần có xe máy hay xe ô tô chạy ngang qua, lũ trẻ nông thôn bèn chạy ra hít lấy hít để thứ khói xăng được thải ra từ động cơ của xe. Trẻ em ngày hôm nay hẳn rằng sẽ không hiểu và không lý giải được hành vi mất vệ sinh, có hại đến sức khỏe như vậy, vì ngày nay xe cộ đã quá nhiều, người ta quá sợ ô nhiễm không khí từ khí thải xe. Nhưng cách đây độ ba bốn chục năm, trước Đổi mới, thì xe máy là một điều xa xỉ, kỳ lạ. Khói xe máy là một sự kiện hiếm có, kỳ diệu đối với tuổi thơ nông thôn thuở ấy.
Khép lại cuốn sách mỏng của Văn Thành Lê, sự tinh tế, thú vị trải dàn ra trên những trang giấy. Tôi vẫn tin rằng, anh sẽ còn đi xa, đi lâu trên hành trình này. Văn Thành Lê viết truyện thiếu nhi trong sự chân thành, thiếu phẩm chất ấy, tôi tin sẽ không nhà văn nào thành công được trên địa hạt nhạy cảm này.
Y.T
(SHSDB41/06-2021)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH