Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh - những giá trị và sáng tạo chưa kết thúc

11:04 26/11/2008
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

Hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam, chống đế quốc Pháp và  Mỹ cùng hai cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và Tây Nam của tổ quốc đã trở thành đề tài và cảm hứng bất tận trong ý thức nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ. Và thực tế, ta đã có một dòng chảy mãnh liệt của văn học Việt Nam về đề tài kháng chiến với  nhiều cách tiếp cận và lý giải chiến tranh và con người trong chiến tranh khác nhau với những thành tựu khác nhau. Vinh dự và niềm tự hào ấy dành cho những nhà văn mặc áo lính qua nhiều thế hệ mà tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử văn học với tư cách là những nhà văn chiến sĩ đầy bản lĩnh và tài năng.

Như ta đã từng chứng kiến, chiến tranh ở bất kỳ dân tộc nào khi đi qua, nó nghiễm nhiên trở thành kho tư liệu và ký ức tâm hồn của dân tộc ấy. Vì vậy, nó có sức sống vĩnh cửu trong nhân dân bằng việc các nhà văn tái hiện nó trong tác phẩm với cái nhìn của người trong cuộc, bằng mệnh lệnh của trái tim và sự thôi thúc viết lên sự thật tối đa của ngòi bút. Sự thật chiến tranh và con người trong chiến tranh lại có dịp được đánh thức mọi tiềm lực bằng cái nhìn khách quan, nhân bản với độ lùi cần và đủ của nhà văn trong thời bình. Văn học về chiến tranh sau chiến tranh ở Việt Nam nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và con người bằng một quan niệm thống nhất nhưng đa dạång, có bổ sung những mặt còn bỏ ngỏ mà một thời binh lửa, chúng chưa được thể hiện, vì cần phải như thế.

Toạ đàm Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức là một động thái tích cực và cần thiết để khuấy động không khí học thuật, văn chương về một mảng đề tài đang còn và luôn luôn hấp dẫn trong ý thức và mong mỏi của bạn đọc - những người tiếp nhận có bản lĩnh và tài năng hôm nay.
Ban tổ chức nhận được 15 báo cáo của nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu và nhà văn trong và ngoài tỉnh, từ các trường Đại học ở Huế. Chúng tôi cũng vui mừng nhận được đăng ký phát biểu, thảo luận của nhiều anh chị em văn nghệ sĩ có mặt với tư cách là người trong cuộc, những người đã một thời mặc áo lính, là chứng nhân của 2 cuộc chiến, trở về từ những cánh rừng bom đạn, từ các chiến trường, các mặt trận.

Các báo cáo tập trung nghiên cứu và đề cập ở các chủ điểm như sau:
-  Bàn về thi pháp chung ở quan niệm nghệ thuật về nhân vật, về các cấp độ hình tượng của tác phẩm.
-  Bàn về sự hình thành đội ngũ những người cầm bút, về hành trình văn học chiến tranh, cả trong và ngoài nước.
-  Bàn về từng tác giả, tác phẩm; suy nghĩ về hiện thực chiến tranh và vị thế của nền văn học chiến tranh hôm nay.
Sau đây, chúng tôi xin tổng lược những nét cơ bản của các báo cáo như một biểu thị đồng tình, tuy chưa đầy đủ, về thành công của buổi Toạ đàm.

1. Chủ điểm bàn về những vấn đề chung của văn học chiến tranh, có báo cáo của Hồ Thế Hà với tiêu đề: “Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh sau chiến tranh” đã cắt nghĩa cơ sở xã hội và tư duy nghệ thuật của nhà văn ở việc chiếm lĩnh hiện thực đời sống trong chiến tranh và sau chiến tranh, từ đó, nắm bắt và thể hiện thành quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của mình. Bài viết đi đến nhận định tổng quát “Xuất phát từ cái nhìn biện chứng, nhân bản và đạo đức của người trong cuộc với nhu cầu nhận thức tối đa, cộng với không khí dân chủ hoá trong đời sống xã hội, nhà văn có cảm hứng nói đúng sự thật, nói thẳng vấn đề. Đó là trách nhiệm đối với con người hôm nay và hôm qua, trong đo,á có những người đã vĩnh viễn hoá thân vào lòng đất mẹ... Những gì về cuộc chiến tranh đã qua, đi vào tác phẩm của các nhà văn sau chiến tranh đã chứng tỏ sự ý thức cao độ và trách nhiệm công dân tích cực của từng tác giả trong việc dựng lại đời sống tinh thần của dân tộc, dựng lại chân dung nhân dân, chân dung người lính một cách trọn vẹn và nghệ thuật. Và vì vậy, cũng xúc động nhất, nhân bản nhất trong việc nối liền hiện tại với quá khứ   tương lai cho con người hôm nay và mai sau”.

Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã nhìn nhận, chiêm nghiệm từ các tác phẩm về đề tài chiến tranh và đặt ra nhu cầu cấp thiết trong bài viết “Đã đến lúc cần có một cách nhìn toàn diện, tôn trọng sự thật”. Bằng việc điểm qua những mặt được và chưa được của văn học về chiến tranh từ trước đến nay, tác giả đã nêu ra một hiện thực như sau: “Mấy chục năm qua, văn học nghệ thuật đã tạo ra được nhiều điển hình về người anh hùng nhưng vẫn còn mắc nợ với nhân dân, vì nếu nhìn thẳng vào sự thật, thì hình tượng người anh hùng chưa có sức lay động mãnh liệt, chưa có sức sống lâu bền trong tâm hồn công chúng”. Từ đó, tác giả bàn đến quan niệm và cách nhìn về chiến tranh, về người anh hùng, về nhu cầu nhận thức tối đa hiện thực thời chiến cả bên ta và bên đối phương một cách toàn vẹn hơn. Có thế, văn học “mới giúp mở rộng chân trời sáng tạo để có những tác phẩm sâu sắc hơn, nhân bản hơn, và như thế, sẽ có giá trị lâu bền hơn”.

Trong cảm hứng nói lên sự thật và khát vọng tái hiện sâu sắc và trách nhiệm về cuộc chiến tranh vừa qua, nhà văn Nguyễn Quang Hà đã khẳng định trong bài viết có tiêu đề “Chúng ta không thể không viết về đề tài chiến tranh”, đặc biệt là viết về vùng đất lửa huyền thoại Trị Thiên, bởi vì đây là vùng trắng anh hùng, là “vùng chiến lược của đầu cầu giới tuyến quân sự tạm thời”. Những ký ức chiến trường ấy đã và sẽ đi vào những trang sách về chiến tranh của anh và đồng nghiệp một cách nhức buốt, vừa như những ký ức sống vừa như huyền thoại -sử- thi- anh hùng ca.

Tại cuộc Toạ đàm này, tác giả Nguyễn Hồng Dũng có bài viết “Chiến tranh Việt trong văn học Mỹ- Từ sự thật đến tác phẩm”. Đây là bài viết tổng quan tiếp cận nền văn học về đề tài chiến tranh Việt của các nhà văn Mỹ- là cựu binh hoặc từng tham gia trực tiếp với nhiều cương vị khác nhau trong cuộc chiến ở Việt . Bài viết đã cắt nghĩa cái gọi là “Hội chứng Việt Nam” mà những cựu binh Mỹ đã ám ảnh và dẫn đến hơn 50% trong số họ bị chấn thương thần kinh vì những tội ác mà họ gây ra đối với nhân dân Việt Nam. Những hội chứng kinh hoàng ấy được họ ghi lại trên giấy trắng, mực đen và những câu trả lời tự thú, sám hối thông thường của họ là: “Cuộc chiến tranh này đã chà đạp lương tri, lẽ phải, nó đã xô đẩy những con người bình thường vào những hoàn cảnh phi lý, và sự điên rồ đã trở thành phản ứng bình thường đối với nó”. Ngoài thơ, ký, truyện ngắn nhiều không kể xiết, tác giả cho biết, chỉ riêng tiểu thuyết Mỹ về chiến tranh Việt lên đến con số trên 500 quyển. Đó là con số có ý nghĩa thông báo giúp ta thấy chính những người lính Mỹ- nhà văn cựu chiến binh luôn “sống trong hối hận và cay đắng, lương tâm bị cắn rứt và mọi giá trị đạo đức đều bị sụp đổ”; ở họ “đều có số phận bi đát, chết mòn vì sự suy sụp thần kinh ngay giữa những người thân”. Tất cả đều tự nhận “Cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt là một cuộc chiến tranh dã man và vô nghĩa”. Văn học về chiến tranh Việt ở Mỹ chính là bài học để “Người Mỹ tìm ra chính bản thân mình” và đồng thời cũng là lời cảnh tỉnh cho mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa khác cả hôm qua và hôm nay.

2. Từ góc nhìn và cách lý giải sự hình thành đội ngũ sáng tác, nhà giáo Phạm Phú Phong có bài viết “Kháng chiến qua hồi ức của các nhà văn kháng chiến Bộ”. Bài viết giúp ta thấy được con đường hình thành và đến với văn học của đông đảo công chúng và lực lượng nhà văn cách mạng để trở thành những tên tuổi và tác phẩm lớn, có giá trị càng khẳng định và chứng minh một hiện thực có tính quy luật của cuộc sống lớn cách mạng: “Mỗi người có một điểm xuất phát khác nhau, một cách thức đến với kháng chiến riêng biệt, nhưng ở họ đều có chung một con đường là đến với kháng chiến với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, với khí thế hào hùng để giải quyết vấn đề số phận từng con người với vận mệnh của dân tộc và sự nghiệp văn chương: Từ thuở mang gươm đi mở cõi - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ).

 Nguyễn Đắc Xuân, bằng vốn ký ức chiến trường của người trong cuộc đã kể lại những câu chuyện đầy xúc động về sự thật bi hùng của nhân dân và người lính để làm nên chiến công mùa xuân 1975. Sự thật ấy phải được làm sống lại trong tác phẩm với tinh thần dũng cảm nói lên sự thật như một sự biết ơn, như lòng ngưỡng mộ và tự hào của nhà văn. Điều ấy, chỉ dành cho những nhà văn dũng cảm và đầy trách nhiệm công dân. Và cũng như cách thế để chống lại sự giả trá, đớn hèn của những người vô đạo đức với quá khứ, với lịch sử trước đây và hiện nay để trở thành kẻ “ăn mày dĩ vãng” .
Nhà văn Hoàng Vũ Thuật góp tiếng nói ở Toạ đàm về chân dung một nhà thơ quen thuộc cuả Huế chúng ta - Nhà thơ Thanh Hải. Anh đã đi ngược hành trình thơ Thanh Hải trong từng thời gian và không gian với từng bài thơ đỉnh, cắm từng cột mốc trong từng chặng đường thơ để phân tích, lý giải, chỉ ra cái hay, cái đẹp và sự chuyển biến về tư tưởng, về hình thức biểu hiện của Thanh Hải, và cuối cùng chỉ ra vị trí của Thanh Hải trong dòng thơ chung của thế hệ những nhà thơ cùng thời: “Thơ Thanh Hải xúc động, như ngọn lửa bùng lên chói sáng, một lời khiêm tốn tự khép lại đời thơ của mình với những trang thơ viết bằng mồ hôi và máu ba mươi năm qua: Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời - Dù là tuổi hai mươi - Dù là khi tóc bạc”.

Đặc biệt, cuộc toạ đàm đã nhận được truyện ngắn của nhà văn Nhất Lâm viết về chiến tranh có tên Con tắc kè. Tác phẩm nói về một người lính Mỹ ở chiến trường Alưới 1972. Ông về Mỹ và trở lại Việt trong tâm trạng của người có lỗi, nhưng lại được đối xử như một người bạn từ phía Việt . Từ đó, đã làm cho ông càng thấy chủ nghĩa nhân bản tuyệt vời của nhân dân Việt trong và sau chiến tranh. Đó chính là sức mạnh chiến đấu và làm nên chiến thắng kỳ diệu.
Lê Trọng Sâm cũng tham gia toạ đàm với bài viết “Vài cảm nghĩ về văn học đề tài chiến tranh hôm nay” qua đội ngũ những người cầm bút trong 2 cuộc kháng chiến. Sự liên hệ quá khứ của dân tộc để thấy phong cách, tư cách công dân và tư cách nghệ sĩ của nhà văn đã làm cho trang viết của họ trở thành ký ức tâm hồn và bản lĩnh anh hùng của dân tộc Việt .

 Vĩnh Nguyên với tham luận “Văn học Cách mạng không ngừng giải quyết mâu thuẫn” đã đề cập đến những đối lập và phân hoá từ bản thân những người lính trở về sau chiến tranh. Họ tự chọn cho mình một hướng đi không mấy tốt đẹp, mà lẽ ra, với vai trò và tư cách người lính một thời, họ phải xa lánh. Vì vậy, họ phải lặng lẽ đóng vai trò người khác trong “ngày hội hoá trang” giả tạo của chính mình.

3. Bàn về từng tác giả, tác phẩm, có ba bài viết nổi bật của TS. Trần Huyền Sâm, TS. Nguyễn Thành và Thạc sĩ Trần Thanh Hà. Các tác giả chọn 2 tác phẩm tiêu biểu của Bảo Ninh và Chu Lai là Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng để khảo sát và chỉ ra những đặc điểm thi pháp của hai nhà văn này. Trần Huyền Sâm với bài: “Bảo Ninh và nỗi ám ảnh chiến tranh” đề cập đến nội dung nổi trội nhất của tác giả này qua tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đó là tính chân thật trong và sau chiến tranh mà người lính phải nếm trải và nhận thức trong nhiều trạng thái, hoàn cảnh ở thời bình. Từ đó, bài viết đề cập đến kỹ thuật tiểu thuyết của Bảo Ninh. Đó là biện pháp dòng ý thức, kỹ thuật đồng hiện không- thời gian, lắp ghép kiểu điện ảnh, những tín hiệu thẩm mỹ  mà người đọc phải nắm vững để giải mã và tiếp cận thế giới nghệ thuật của Bảo Ninh ở các lớp hình tượng và cấu trúc chìm của tác phẩm.

Cũng về Nỗi buồn chiến tranh, Trần Thanh Hà tìm hiểu tác phẩm Bảo Ninh ở góc nhìn Hiện thựcVĩnh cửu. Đó là hiện thực chiến trường với nỗi đau buồn của người lính trong và sau chiến tranh, để từ đó, chứng minh cho khát vọng vĩnh cửu của những thế hệ con người Việt Nam hôm nay và tương lai từ bài học xương máu của chiến tranh có tên là nỗi buồn.
Nguyễn Thành, từ góc nhìn so sánh để chỉ ra sự đổi mới trong nghệ thuật của Bảo Ninh và Chu Lai qua hai tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh Ăn mày dĩ vãng. Tác giả nghiên cứu sự tiếp cận chiến tranh từ góc độ phi sử thi của 2 tiểu thuyết này để thấy sự chuyển biến, thay đổi điểm nhìn nghệ thuật của Chu Lai và Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh và thân phận tình yêu trong hai tiểu thuyết được lồng ghép trong các kiểu thời gian nghệ thuật khác nhau để nói lên hiện thực cuộc sống của từng nhân vật người lính trong và sau chiến tranh là cách tiếp cận độc đáo của các nhà văn. Đó là khuynh hướng đảo tuyến, xoá bỏ dần lối kể chuyện theo trình tự thời gian của văn xuôi trung đại, do vậy, tính chất, tâm trạng và tình cảm của nhân vật hiện lên đa dạng, phức cảm và nhức nhối, gấp gáp hơn nhiều, góp phần thể hiện chủ đề và các cung bậc của tâm lý. Tác giả cũng chỉ ra chất thơ, lời văn đa thanh và vai trò của người trần thuật trong hai cuốn tiểu thuyết nói trên.

4. Tham gia toạ đàm, còn có một phần nội dung rất hấp dẫn và sinh động, đó là các ý kiến phát biểu, trao đổi tại chỗ xuất phát từ kinh nghiệm sáng tác và kinh nghiệm nghề nghiệp, kinh nghiệm đời của các anh chị từng là nhà văn ở chiến trường như Tô Nhuận Vỹ, Ngô Minh, Nguyễn Đắc Xuân... Các ý kiến đều tập trung nêu và đề xuất cách tiếp cận chiến tranh và thể hiện con người trong chiến tranh với sự tiếp biến nghệ thuật hiện đại để làm sao những tác phẩm viết về chiến tranh sắp đến sẽ hấp dẫn hơn, chân thật hơn mà cũng nghệ thuật hơn. Và vì vậy, cũng nhân bản hơn đối với từng cá nhân con người hôm qua, hôm nay và mai sau. Đó là mệnh lệnh của trái tim, là sứ mệnh cao cả của nghệ thuật mà lịch sử trao cho các nhà văn chúng ta. 
Huế, ngày 20-12-2005  
H.T.H

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).